- {{item.pageName}}
Thực hành cụ thể
TNĐ- là một người bạn của tôi, hiện đang định cư tại Pháp. Một hôm khi anh điện cho tôi, tôi thấy có vong một người phụ nữ đang đứng bên anh. Khi tả nhân dạng thì anh xác nhận đúng là vợ của mình- chị mất do tai biến não đã gần hai năm…
Cả gia đình anh chị hiền lành, theo Đạo Phật, có lòng tin và biết ăn chay niệm Phật. Thấy thế, tôi hứa sẽ trợ vong cho chị T đi đầu thai sang kiếp khác! Từ đó- mỗi ngày 3 bữa ăn, tôi chưa cầm đũa đã thấy chị về đứng ở cửa sẵn rồi… Phần âm nào có dịp về với tôi, thế nào cũng lần theo mỗi khi tới bữa. Người sống có biết đâu mà cúng, cao lắm thì 49 ngày- Thất tuần đã mãn! Thế nên biết tôi hay “chiêu đãi âm phần”, họ thường tìm về để được no đủ…
Hôm đó mùng hai- nhằm ngày cúng âm, tôi sửa soạn ăn sáng, gọi Tí thiên tướng về cho Thiên binh canh giữ, không để vong nào vô nhà cho tới giờ chiêu đãi (Vì họ hay lẩn lút phá khuấy lung tung trong nhà, lần cúng nào cũng vậy). Đang ăn thì nghe di động reo lên hai tiếng rồi thôi- tôi nhìn thoáng, thấy là của anh Đ. Lạ thật- bên ấy mới là 3, 4 giờ sáng… Chắc anh ấy nằm ngủ đè lên, cấn máy, nên nó reo!
Vừa bước xuống nhà sau, tôi đã thấy chị T đứng sẵn đó rồi- Tôi kêu Tí: “Sao mẹ nói con canh không cho ai vô nhà mà!” Nó nói :“Con cho người canh rồi!”- :“Vậy sao người nầy vô được ?” Thằng nhỏ nắm tay đẩy ra thì tôi can lại, cho ăn! Tôi nói: “Tôi đã mua cho chị một bộ đồ, có nón dép tiền bạc và lộc thực đầy đủ rồi. Nhưng hãy để chiều nay, khi anh Đ điện về tôi sẽ cho chị, giờ cho sớm các âm vong nhìn thấy sẽ tủi thân!”
Đến chiều, khi anh Đ điện về- tôi hỏi, anh xác nhận là không điện cho tôi. Sau đó điều tra lại, anh nói là do đứa con gái: “Gọi lộn số”! Tôi đốt hóa áo quần, nón dép, tiền bạc và lộc thực: Gồm một túi gạo và bánh trái, thức ăn… Xin Ơn Trên cho người đưa chị đi đầu thay… Ngay tối đêm đó, anh điện cho tôi để kiểm tra lại! Tôi chợt nhìn thấy trên nóc nhà nơi anh ở, xuất hiện một vị nữ Bồ Tát rất đẹp đẽ, oai nghi! Tưởng Mẹ về trợ cho mình, tôi nói: “Mẹ dạy con điều gì, con xin nghe!” Vị ấy không nói gì, chỉ mỉm cười, phóng ra 3 lần, ba đạo hào quang màu vàng rực rỡ phủ trên đỉnh đầu… TNĐ- tôi mới biết linh căn ấy chính là của chị T, vợ anh Đ. Do có chút tội, vị Bồ Tát ấy đầu thai làm người trần, sống hơn 50 năm, trả hết nghiệp rồi đi!…
** Ngôi nhà của anh chị Đ mua đã hơn 20 năm- Có nhiều điều bất tường: Lần nào tu sửa nhà cửa, anh cũng bị té từ trên cao xuống: Một lần bị vỡ mắt cá chân, lần nữa bị đứt gân tay. Bàn chân giờ cứ trở chứng, đau hoài!…
Khi cho Điển điều tra từng phòng một trong cuộc đất, tôi phát hiện có ngải và một lá phép án trên la phông nhà. Cho thu binh, xóa phép, thu ngải xong- Ra sân trước, tôi hỏi xin các Đấng trên dưới trong ngoài, ai có thể báo giúp tôi tìm hiểu xem còn có binh bùa án đâu đó trong cuộc đất nữa hay không?
Đột nhiên thấy một ông Thần từ ngoài đường lớn bước vô, nói: “Tôi là Thần chủ cuộc đất nầy!” Tôi hỏi: “Chủ đất sao ở ngoài đường ?”- Đáp: “Tôi là chủ của toàn bộ khu đất rộng chung quanh đây!”… Tôi hỏi lại thì anh Đ nói đúng: Đây là một khu đất lớn phân lô bán, của cùng một chủ!
Vị Thần ấy dẫn tôi tới, chỉ vào trụ cửa rào ở mé bên phải căn nhà và tại cửa sau của nhà ấy, nói: “Hai chỗ nầy có án hai lá bùa!”… Thế là tôi xóa bùa phép, thu binh (đương nhiên tôi đã “treo giải thưởng” là hai mâm lộc thực “thịnh soạn” cho những ai hỗ trợ được cho mình)…
Một thời gian sau- Anh Đ có việc phải sửa nhà. Anh lo lắm, điện cho tôi. Tôi nói: “Anh yên tâm, không có gì bất ổn nữa đâu- bùa ngải ta đã giải rồi mà!” Sau hôm đó, anh Đ mới tin là mọi sự đã ổn!
Gần giáp tết năm Tân Mão, anh Đ nói: “Mấy đêm nay anh liên tục mơ thấy ác mộng rất ghê sợ: Thấy mình lạc vào một nơi như nghĩa địa hay địa ngục gì đó, bị rượt đuổi rất dữ, chạy hoài mà không thoát. Có lần thấy lạc vào một khu nhà hoang phế, đổ vỡ không người- Lúc lại thấy một đám người đè bắt anh phải nhận một cái gì đó rất đáng sợ… anh dãy dụa dữ lắm mà không thoát!
Có đêm lại mơ thấy tất cả những ổ cắm điện trong nhà đều bị cháy, xẹt ra tia lửa đỏ!”…
Những cơn ác mộng liên tục đến, làm cho anh Đ hoang mang… Muốn “truy nguyên” nguồn cội, tôi hỏi tuổi của anh. Giở sách ra coi và nghiệm lại, tôi mới giật mình: Trong năm tới, trong nhà anh có thể có tang- Một là bà mẹ già 85 tuổi đang yếu bệnh, hai là… chính chủ! Mẹ anh đang ở VN, đã một thời gian rất dài anh chưa về thăm mẹ...
Tôi bàn với anh: “Anh nên về thăm mẹ một lần, ngộ nhỡ mẹ có bề gì cũng đỡ phải ân hận… Có thể trong tháng hai nhà anh sẽ có chuyện lớn đấy, nếu qua khỏi thì mẹ anh còn sống lâu!” Thế là anh Đ thu xếp về VN- anh mời tôi cùng về quê và đi du lịch các danh lam thắng cảnh!...
Riêng tôi- khi vừa nhận lời anh, tôi cũng liên tục mơ thấy những giấc mơ ứng báo, trong đoạn sau các bạn sẽ thấy sự linh ứng huyền nhiệm của giấc mơ, phản ảnh trên đời sống hiện thực! Giấc mơ nầy tôi kể lại tường tận với anh Đ: Người mẹ nhỏ con, tóc cắt ngắn, da nhăn- Ngôi nhà cất theo dạng nằm ngang, có hai cửa: cửa trước và cửa sau đều thông ra sân, và hai người phụ nữ mà chúng tôi gặp khi mới về tới nhà…
Khi về tới nhà anh Đ mới giật mình, vì đúng y như tôi đã tả trong giấc mơ: Người mẹ già, căn nhà ngang, gian bếp với cây xà ngang ám khói- và chúng tôi cũng gặp đúng trong chiều ấy hai người phụ nữ, không hơn không kém!...
Anh Đ vừa về tới- những ngày giáp tết không tìm được vé, cả máy bay cũng như xe chạy tuyến đường dài. Chúng tôi bàn với nhau: Để sau ba ngày tết rồi hãy đi! Ngay chiều hôm ấy tôi thấy linh hồn bà Mẹ, rồi lại ông thần Tổ nghiệp vào tận nhà rước chúng tôi. (Nguyên anh Đ là đứa con trai duy nhất- xem như là “cháu đích tôn” của dòng họ) Hôm sau, anh Đ được tin mẹ mình bị té ngã, hôn mê! Tôi biết là do trì hoãn chuyến đi, họ rước không được nên xô cho mẹ té để thúc ta về… bèn khấn xin Cửu huyền của anh Đ cho bà mẹ được bình an! Hôm sau nữa, nghe nói là mẹ đã tỉnh và đi lại được!...
Mùng hai tết- chúng tôi lên đường… Chuyến xe dừng ăn đêm ở một quán ven đường. Vừa bước xuống xe, tôi đã thấy vong một ông lão mặc áo dài màu trắng cũ kỹ, ông nói mình là “ông Cố tổ” của dòng họ T, được cử đi đón hai người!
** Đến nhà- Việc đầu tiên, bà mẹ bảo anh Đ tổ chức dâng lễ lên tộc tổ tông đường bên dòng họ nội. Khi xin Điển, tôi nói lại: “Anh về nhà mẹ bên Ngoại trước, lễ ở đây trước tiên cho phải phép!” (anh là dân gốc Huế- Người xứ Huế vốn rất coi trọng điều lễ nghĩa).
Trưa hôm sau- Khi dâng lễ bên nhà thờ chánh họ, tôi ứng mời, thấy ông bà tộc phụ về đứng cả ngoài sân, không vào được trong nhà. Khi hỏi lại thì bà con nói: xây nhà thờ xong thì thượng lễ lên mà thờ, không biết gì hơn! Thực ra- cho dù có là nhà thờ chánh họ, hoặc muốn lập bàn thờ tổ tông tại nhà đi nữa, đều phải đủ lễ, đúng ngày vía cửu huyền thì ông bà mới được ngự về- bằng không cũng chỉ lang thang trong nhà trong cửa, chứ không được “lên bàn thờ”!
Hôm ấy- tôi đã xin lễ cho rước Cửu huyền vào nhà thờ. Thấy có đại diện tổ ông, tổ bà, tổ cậu tuổi độ 13 và tổ cô tuổi 17. Vừa vào trong nhà thờ- tổ cô đã bay lượn, múa may quay cuồng, xưng mình là Đồng cô, xin tôi giúp cho đi đầu thai- nhưng phải làm Đồng cô thì mới chịu!…
Chiều hôm sau, mẹ anh Đ. phát đau nhức tay chân dữ! Hết anh rồi tới tôi xoa bóp lẫn chữa bằng Nhân điện mà cũng chẳng bớt. Đêm tới- lạ nhà tôi không ngủ được, nằm yên lắng nghe có tiếng động lạ phát ra từ phía giường nằm của mẹ anh. Sanh nghi tôi giở mùng, “lò dò” lần tới- mới hay bà mẹ đang nằm trên giường mà ăn, bánh ngọt các thứ rơi vãi lung tung. Lạ thật- 3, 4 đêm nay có thấy mẹ ăn lúc nửa đêm như thế nầy đâu!...
Trụ thần nhìn, tôi thấy một… “lão bà” tóc trắng. Tra hỏi thì bà nói: “Ta là cụ ngoại của thằng Đ- Ngày mai nầy là đám giỗ ta. Ta cố tình ra mặt để xin cô Hai trợ giúp, binh tướng xin giao hết lại cho cô tùy nghi định liệu!”. Tôi hỏi lại, thì anh Đ nói: “Đúng rồi- Mẹ bảo sáng mai là ngày kỵ Ngoại, mình đi chợ mua đồ nấu một mâm cơm cúng bà đó!” (Ngày kỵ là ngày giỗ).
Xưa nay là vậy- tôi đã biết chuyện nhiều người cao tuổi chết đi trong BV, khi xe tới đưa xác về thì vụt mở mắt ra, sống thêm được một thời gian nữa… Có điều lạ là luôn ăn lúc đêm khuya, đi lại dò dẫm một mình trong bóng tối mà không cho bật đèn. Nay- Bà ngoại anh Đ về, làm cho mẹ anh ăn uống bất thường như vậy!...
Thế là chúng tôi cúng bà Ngoại anh Đ, xin Ơn Trên cho đưa vong bà đi đầu thai cùng thu binh tướng, đưa về Biệt Nghiệp Điện. Tôi mua 4 bộ đồ Cửu huyền, cùng quần áo cô hồn, tiền bạc vàng mã- đem ra sân nhà đốt hóa… Ngoài sân có cái miếu thờ nhỏ, đặt trên cột cao. Về Huế- tôi thấy gần như nhà nào cũng có một cái miếu y như vậy, được chạm khắc rồng chầu phượng múa rất đẹp!
Đang đứng quay lưng với cửa miếu, chợt tôi nghe lạnh buốt từng luồng- Quay lại trụ thần nhìn, tôi thấy trong miếu chỉ toàn là trẻ con, đứa nằm đứa bò ngổn ngang… Tôi bảo anh Đ vào hỏi mẹ xem miếu ấy thờ gì- Mẹ anh nói: “Thờ những thai hoang, chết nhỏ trong tộc họ!”… Thế là tôi xin Ơn Trên cho chuyển vong các bé đi đầu thai!
Với con trẻ thì dễ, tôi có thể xin cho đưa đi đầu thai chuyển kiếp ngay tức thì- bởi vong bé thơ chưa làm nên tội. Vong lớn khó hơn, vì còn liên hệ đến công, tội đã tạo tác trong hiện kiếp!
**Hôm sau- O Lý (cô hàng xóm ) sang chơi… Tôi thấy có một vong đàn ông tuổi độ 40, đứng ngoài sân nhìn vào, tôi hỏi thì bảo là cha của O Lý. Kể chuyện lại, O Lý nhận là cha mình đi lính, chết trẻ ở đơn vị… Vong ấy xin tôi trợ cho được về nhà cùng với vợ con!
Xác chết đường chết chợ, hồn không được vào nhà, trừ phi có người trong nhà biết cách, nhờ thầy rước vong về. Ấy thế mà cũng không dễ- vong chết do bị xe đụng ngoài đường, hoặc chết dưới nước thường không được lên bờ, không được về nhà. Hồn xiêu phách lạc từ đó- lang thang hàng xứ đói rét lạnh lùng… Loại nầy còn có vong những người chết do bệnh dữ, trước lúc chết đau đớn, đến mất hết phách hồn. Khi chết rồi thành hồn ma điên dại, quên mất đường đi lối về, không biết cả mình là ai!...
Trở lại chuyện O Lý- Tôi xin Ơn Trên cho rước vong về nhà, bày gia đình của mẹ cô cúng hai mâm cơm và lộc thực: Một để chiêu đãi Thần Quân binh xin cho giải giáp binh nghiệp, rước vong về- và các chư Thần ở trong nhà, xin cho hồn được “nhập gia”! Mâm thứ hai cho người cha của O Lý và các bạn binh lính, cùng “nhân lộc thực” cho các âm phần trong nhà, trong cửa được ăn! Thế là xong, gia đình O Lý cùng bà mẹ mừng vui hết sức, vì biết người thân của mình đã được về nhà!...
** Sau một tuần lễ về thăm mẹ anh Đ cùng bà con tộc họ, chúng tôi đi Đà Lạt- Là nơi gia đình anh đã sống từ ngày thơ ấu!
Đi thăm nhiều nơi danh lam thắng cảnh xong, anh đưa tôi vào Linh Sơn Tự. Anh nói: “Đây là nơi chị T (Chị của anh) tự thiêu chết, ngay ngày đầu tiên vừa được nhận vào tu tại chùa. Chị 19 tuổi, tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp tôn giáo, chuyện xảy ra cách nay đã hơn 40 năm!”…
Anh hỏi tôi có vào chùa lễ lạy hay không- thấy đã sụp tối và trời đang lạnh dữ, tôi bảo anh “ Thôi về đi, trời lạnh quá!”. Vừa leo lên ngồi sau anh- có một lực nào đó rất mạnh, bứt đứt xâu chuỗi hạt mà tôi đang đeo trên tay, nắm hạt văng rơi tung tóe. Tôi la lên: “Sao kỳ vậy- ai bứt đứt xâu chuỗi của em rồi!”… Cả tôi và anh chạy theo nhặt những hạt chuỗi rơi vãi lung tung, lăn lông lốc trên các bậc lên xuống của chùa. Vừa xong, ngẩng lên- tôi thấy có vong một cô gái, tuổi trạc 20, tóc dài, mặc áo tràng. Hỏi thì vong ấy đáp mình chính là chị của anh Đ, tôi nói: “Anh nói chị T tu từ nhỏ, sao em thấy ở đây chị để tóc dài chấm mông và không cạo đầu?”- Anh Đ nói: “ Đúng rồi- chị tu tại gia, ăn chay trường và chưa cạo đầu. Ngày đầu tiên chị được nhận vào chùa thì chết!”
Tôi nói: “Có anh Đ đây rồi- Nếu chị làm được cho bàn tay em “nổi gai” lên xuống đủ ba lần để cho anh ấy tin, thì em sẽ xin cứu vong chị!”…Tôi đưa tay vuốt, lập tức da bàn tay lặn xuống, xong lại nổi lên- đủ 3 lần! Vừa lúc đó, thấy có một Ông chạy ra ngăn lại, bắt đưa chị T trở vào chùa. Tôi xin hỏi: “Đây là ni sư của chùa, phải không ?”- Ông lắc đầu: “Không phải, là vong thường thôi !”…
Đến đây- phải mở ngoặc ra một chút để nói về những gì tôi cảm nhận được, qua “kinh nghiệm bản thân”về những chuyện liên quan đến âm phần: Một người trường chay, tu tại gia từ nhỏ- ngay ngày đầu tiên được nhận vào làm sư nữ tại chùa, chưa kịp cạo đầu đã tự thiêu- Cho dù chết vì chánh Pháp đi nữa, vẫn phải chịu làm âm vong suốt mấy mươi năm, chưa được siêu thoát bởi… “chết dữ, chết oan”, chẳng được vinh danh- So với một vị sư “phát nguyện hy sinh vì chánh pháp”… khác nhau xa lắm!
“Công pháp” có hay không, chưa biết- Nếu có, sao để cho hồn xiêu phách lạc lâu đến thế mà chẳng được ân cứu? Chánh điện oai nghiêm, các chư vị Phật “điềm nhiên tĩnh tọa”, khép mắt thiền định, phó mặc sự đời… Một vụ án chấn động nơi nơi đến thế, sao các Đấng chẳng rộng dung mà cứu linh hồn? Hay “Thời mạt Pháp” không còn có Phật nữa rồi, chỉ là hình tượng để lại đó thôi, ai tin thì cứ?!...
Sau ngày hôm đó- Tôi làm bài thơ “Thiền!”, xin gởi tặng các bạn, một chút suy tư:
***THIỀN***
Băng qua cánh đồng đời
Đến cửa Thiền hỏi Bụt
Bể dâu già nửa kiếp
Bao giờ thôi vô minh?!...
Trời đất còn chưa yên
Trách sao người chẳng động
Giữa đất trời cao rộng
Chỉ Bụt ta lặng thiền…
Theo cánh chim khắp miền
Tìm về phương nắng ấm
Bụi trần vương khắp chốn
Người hoang mang kiếm tìm!
Vượt trùng khơi- cánh buồm
Lang thang hoài mỗi độ
Gió sương mù viễn cố
Thương một đời phong ba…
Chợt gần mà chợt xa
Dáng Bụt ngồi lặng lẽ
Chúng sinh đầy nạn khổ
Sao chẳng chịu xuất Thiền ?!
Ngàn- ngàn năm chí nguyền
Độ “viễn ly khổ ách !”
“Sai nguyện không thành Phật”
…Nhánh Dương chi muộn phiền…
Dòng Tịnh thủy ngủ yên
Trải bao mùa hưng phế
Cánh lá vàng lạc cội
Theo dòng đời trôi xa…
Buổi Kinh cầu rồi qua
Ngậm ngùi dưới chân Bụt
Đường về xa hun hút
Níu hỏi, hận triền miên
………………………………
: “Sao chẳng chịu Xuất Thiền !?...”
** Tiếp chuyện chị T- Tôi xin ông giữ chùa (cũng không kịp hỏi ông gì) cho phép tôi rước vong về theo - Ông lắc đầu, nhất định bắt chị T trở vào chùa, không cho tiếp xúc với tôi nữa. Suy nghĩ một lát- tôi bèn đứng giữa sân chắp tay khấn xin Mẹ Quán Âm chuẩn cho phép rước vong, và xin Ngài Địa Tạng Bồ Tát. Người đồng ý cho- thế là tôi thu ngay vong hồn, đưa vào KTT đem về theo…
Đến nhà- Tôi nói: “Em không đóng cửa nhốt chị T, để chị cứ ra vô bình thường. Chiều nay mình ra chợ Đà Lạt kiếm cơm chay cho chị ăn, mai mốt về Sài Gòn em sẽ mua cho chị một bộ đồ và xin Ơn Trên đưa chị đi đầu thai!”
Chiều hôm sau- Anh Đ đến nhà bạn chơi, tôi không đi, một mình đi bộ ra chợ ĐL... Không có cơm, tôi mua hai ổ bánh mì nóng mang ra bờ hồ Xuân Hương kiếm băng đá ngồi, mời chị T. cùng ăn. Trời ĐL sau tết vẫn còn rét căm căm, gió lồng lộng thổi qua, xao động mặt hồ- Ánh điện chung quanh muôn hồng nghìn tía, đẹp không thể tả!... Ăn hết bánh, thấy trời lạnh quá- tôi đi bộ về nhà. Vừa vào tới phòng, đột nhiên tôi lên cơn rét dữ… Leo lên giường trùm hai ba lớp mền kín mít, vẫn không hết rét. Tôi nằm chịu trận đến gần 10 giờ đêm thì anh Đ về tới!
Thấy tôi nằm chết gí- Anh Đ hoảng hốt, dìu tôi ngồi dậy. Trụ thần nhìn, tôi thấy… chị T. ngồi ở đầu giường- hèn nào mình phát lãnh! Tôi đành nhốt chị T vào KTT, không dám cho ra ngoài nữa…
Tôi lại thấy một vị thần đang đứng trước mặt- Hỏi ra, vị ấy bảo mình là “Thần chủ Hồ Xuân Hương”, nói: “Tôi mang tới đây hai lời nhắn của Bà Chúa Thượng Ngàn”. Xưa nay, tôi chưa hề nghe danh tính của Bà chúa Thượng Ngàn- cho đến ngày anh Tư (bên CLB Tiềm năng SG) đưa đến nhà tôi một người phụ nữ tuổi trạc 55, nhập xác xưng danh là “Chúa Thượng ngàn”…
Nguyên lúc trưa nay, chúng tôi đi du lịch trên đèo cao, có thấy một am tự đề chữ “Miễu Bà Chúa”, tôi nói: Giữa chốn “thâm sơn cùng cốc”, chắc là miếu Bà Chúa Thượng ngàn!”- Vòng ra trước, hóa ra là vậy!…
Tôi lại hỏi: “Thần hồ thì liên quan gì đến bà chúa Thượng ngàn ?”- Đáp: “Bà chúa chủ quản toàn bộ cao nguyên này!”. Vị Thần nói với tôi hai điều- nhưng phải xin lỗi các bạn, cho tôi được giữ kín, vì đó là chuyện riêng tư, mà sau nầy ứng nghiệm chẳng sai- khiến tôi thêm “thần phục” bàn tay mầu nhiệm của các Đấng!
**Chuyện về phần vong của chị T vẫn còn đoạn nữa- tôi xin kể nốt để các bạn thấy trọn vẹn “hành trình chuyển vận của “Huyền Môn”:
Sau chuyến du lịch trở về SG- Anh Đ bị “sổ mũi”, có lẽ do chênh lệch thời tiết… Nước mũi chảy ra liên tục, không làm sao cầm được, thuốc men cũng “chả ăn thua”- Tôi lấy tỏi đâm nhuyễn pha nước nóng nhỏ vào, buốt xót hết sức, vẫn chẳng có tác dụng gì ! Xưa nay, tỏi nhỏ vào mũi trị dứt ngay cấp kỳ- vậy mà… Nghi anh Đ bị “tà đánh phá”, nhưng tôi không dám giải tà, e anh ấy lại bảo rằng mình “mê tín”!
Đến ngày trở về Pháp- Chúng tôi đón taxi đưa anh Đ ra phi trường. Con đường Nguyễn Ảnh Thủ rất đông xe cộ, vậy mà chẳng tìm được chiếc taxi nào… Mấy người hàng xóm đem cho hai tấm card: Một của taxi Mai Linh, một của người tài xế khác... Gọi nhiều lần, cứ: “Số điện thoại nầy không có thực!” Hoặc: “Không thể kết nối!”- Suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, lo lắng đến “nôn cả ruột”- Trễ giờ bay, phải mua lại vé mới thì… mất khối tiền! Sanh nghi- tôi trụ thần kiểm tra, thấy vong chị T. đứng ngay bên cạnh. Tôi nói: “Hèn nào mà tìm hoài chẳng có xe!”. Ông bà xưa nói “Cái vía nặng”- chẳng qua là do tà khí trong người nhiều, làm việc gì cũng hỏng!
Giận quá, tôi kể lại với anh Đ và hỏi: “Chị ra đây làm gì ?”- Đáp: “Tôi muốn theo cậu Đ về bển!”. Tôi nói: “Nếu thế thì em bỏ chị luôn, không đưa chị đi đầu thai đâu, cho chị làm “hồn xiêu phách lạc” luôn đi!” Suy nghĩ một giây, vong chui lại vào KTT… Gần như “ngay lập tức” hai chiếc taxi trờ tới, tranh nhau rước khách! Có thế- Anh Đ mới thấy lực của “người âm” khuấy phá, ngăn trở được “người dương” đến thế nào!...
** Xưa nay những người theo đạo Phật- khi trong nhà có người thân qua đời thường đem hình ảnh hoặc cốt vào gởi cửa chùa- để linh hồn theo về đó mà nghe kinh kệ, hầu sớm được siêu thoát... Hồn có ở chùa hay không, chưa biết- hồn có tu được hay không, chưa rõ…
Linh cốt người thân đem gởi vào chùa- xem như ta có nhiệm vụ thường xuyên thăm viếng, lễ lạy… và gởi tiền “hương khói” cũng như phụng trì Tam bảo. Chùa lớn khói hương nghi ngút, đồ chay các thức mâm trên mâm dưới thịnh soạn, dư giả tràn trề. Nhà vong vắng ngắt, một mâm cơm gồm nhiều chén nhỏ, bên trên là… một hạt muối hột! Chùa càng lớn càng được gởi vong nhiều, nhiều quá đến nỗi các vị sư cho khép luôn cửa chính, người thân đến chùa chỉ đứng ngoài mà “khấn vọng”. Hoặc có thể là âm khí quá nhiều, đêm hôm vong hồn trở dậy lang thang, phá phách trong ngoài các sư chịu không thấu nên cho “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”- Ông bà xưa nói: “Phá như quỷ phá nhà chay” cũng phải!...
“Trần sao âm vậy”- Ta sống ăn uống thế nào, chết cũng ra thế ấy! Có điều vong hồn giỏi nhịn lắm- đói khát, không nơi ăn chốn ở đối với “hồn xiêu phách lạc” 5, 10 năm, 20 năm… là chuyện thường! Nhưng sống là ta, chết cũng là ta- thử tưởng tượng vong hồn quy tụ về cửa chùa thấy các bàn cao, bàn thấp đều thừa thãi lộc thực, hoa trái- chỉ có nhà vong lạnh ngắt bát cơm trắng với muối hột, chỉ… nghi ngút khói hương- hồn lúc ấy buồn vui, ai biết?!
Sống tịnh chay, chết cũng thèm chay tịnh- sống thịt cá, chết cũng mê luyến cá thịt mà thôi. Sống ăn chay có rau quả đậu tương… chết vô chùa rau quả đậu tương chỉ… ngắm- Hồn nào tu được, chắc cũng đắc “Quả vị Bồ đề”!!
Phép “Mông sơn thí thực” kinh sách chỉ dạy rõ ràng- lộc thực biến hóa một nên mười, mười nên trăm, nên ngàn… đủ cả để “chiêu dụng”, sao không cho một mâm cơm chay vào nhà vong, để hồn thiếu thốn mà thương, mà xót!...
Ngày xưa Đức Như Lai đã từng tu luyện theo phương cách ép xác cùng năm anh em A Nhã Kiều Trần Như, cuối cùng Ngài cũng rời bỏ, đi tìm phương sách khác- bởi cho rằng “Xác nhược thì thần sao tỉnh được”! Vong hồn người sống khi chết rồi lại càng u mê, tăm tối- chỉ theo vọng tưởng mà lần tìm… Sự chênh lệch quá lớn giữa người sống và người chết nhan nhãn từng ngày, hồn mãi mê thèm khát ngắm nhìn lộc thực bày ra trước mắt mà ta chẳng có phần- luôn uất kết sân si, tu thế nào cho được?
Xưa có câu: “Phóng tài hóa, thu nhân tâm”- Mẹ Quán Âm nói nôm na là: “Cho chúng ăn thì nói chúng mới nghe!”… Chùa chiền ngày lễ, vía hay tổ chức “trai đàn” chiêu đãi âm vong bên ngoài, cũng như các Phật tử- Để mọi người phát sanh tâm đạo, thích tìm tới Phật tự mà tinh tấn tu hành. Phải chăng vong ở trong chùa đã “quy vào danh sách”, cần cam khổ để cho trọn đường tu?!...