- {{item.pageName}}
Chuyện âm binh
Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi chuyển sang kể cho các bạn nghe về “Âm pháp”: bùa chú, thư ếm… là mảng đề tài mà tôi “ớn” nhất!
Ở đây có một hệ thống “chỉ huy hàng dọc” từ Thần Tướng chủ đạo, đến Tổ Thầy, các binh gia hoặc âm binh… Động tới họ là động đến nhiều thế lực liên đới.
Về âm pháp, hàng cao nhất ta gọi là “Đạo phù”, lệnh chỉ của pháp môn! Thứ đến là “Ấn phù”, còn gọi là Sớ Tổ, các vị thầy tầm sư học đạo xong, lãnh sớ Tổ về nhà để thờ (cũng tương tự như Linh vị). Từ đó các chư binh về theo… Mỗi lá bùa đi kèm theo 12 binh và 1 Tướng, Tướng là Thần hoặc Chúa Quỷ! Tùy theo mức độ quan trọng của công việc mà lá bùa có thể có hai đội binh (Tổng cộng 24 binh) và 1 Tướng, hoặc “xoàng xoàng” chỉ có 6 binh!
Ta gọi lá phép là “Lệnh phù” hay “Lệnh bài”, mỗi lá phép đi cùng 1 lệnh bài! Tất cả những điều này tôi “trộm lệnh Mẹ” để cầu kiến, phỏng vấn các vị Thần điều binh khiển tướng. Họ đã cho tôi biết như vậy!
Đến đây, tôi xin phép đi vào cụ thể từng trường hợp.
* Có một cô người Bắc, tuổi độ hai lăm, nhà ở chợ Hiệp Thành. Cô có một con gái còn bé! Nhờ người quen dẫn lên nhà tôi hỏi Điển xem: có phải chồng mình có nhân tình ở ngoài hay không! Mẹ Diêu Trì về, nhìn mặt cô ấy một lát, Mẹ nói: “Người ta có bầu gần sanh đẻ rồi, còn hỏi có hay không gì!”. Cô gái lúc ấy mới ôm mặt khóc và khai thực mọi chuyện, Mẹ lại bảo: “Chồng con nó bị bùa yêu chứ không phải sanh tâm phản bội con đâu!”. Cô ấy kể chuyện chồng mình về lấy quần áo mang đi, bảo cô: “Anh bị bùa yêu! Em thương anh thì đi tìm thầy gỡ bùa cho anh, không anh chết mất! Giờ cô ấy sắp có con rồi, em để cho anh đi nuôi cổ sanh đẻ Mẹ tròn con vuông rồi anh về!”.
Dạo ấy, tôi vẫn chưa biết đến bùa chú và chưa dám giải bùa cho ai, đành lắc đầu chịu thua, dù lòng xót xa lắm!
Sang ngày hôm sau, cô gái ấy lại lên, đem túi trái cây cúng Mẹ. Vừa nhìn thấy cô, tôi đã buột miệng: “Rồi! Bị bùa rồi! Từ tối qua tới giờ chồng con có về, đưa cho con cái gì đó phải không?”. Cô ấy nói: “Anh ấy mang về năm trăm ngàn, bảo là tiền của cô kia đưa, bảo con cầm lấy mà lo cho con mình, còn ảnh thì nuôi đẻ cho cổ, con mang cả lên cho cô xem, mười tờ năm mươi ngàn đây!”.
Lúc đó, trong nhà tôi còn 3 người nữa đang chờ chữa bệnh. Tôi vừa đặt tay lên xấp tiền xin Điển Trên về nghiệm thì bị bùa đánh tức thì! Vía tôi thấy mình ngã xuống đứng lên 3 lần, đành thua - Buông xấp tiền ra… cả người choáng váng, tối tăm mặt mày như trúng phải gió độc, đứng không vững, phải ngồi bệch ngay xuống đất!
Lần theo bờ tường mới đi được vào buồng trong, tôi ngồi xếp bằng xin Ơn Trên về cứu, xin Điển Thầy Tổ về trợ 5 phút sau mới tỉnh! Trở ra phòng khách, đang băn khoăn chưa biết nên xử trí ra sao thì nghe văng vẳng bên tai: “Nhị Thần Hộ pháp trợ, cô Hai giải bùa đi!”. Tôi đặt tay lên đỉnh đầu cô gái ấy giải bùa xong, Mẹ Quán Âm về, người cầm cây bút Bic màu xanh làm dấu nho nhỏ lên góc của 10 tờ tiền, xong bảo: “Con đem về dùng và để ý đi! Thể nào cũng có tờ trở lộn lại nhà, vào tay con cho coi!”. Mẹ dạy cô gái ấy mua đồ cúng tiễn binh… Lại bảo: “Ta cứu con một lần này thôi! Chồng con có duyên nghiệp với cô kia, tách ra không được đâu!”.
Thật tội cho cô ấy, nghe thế thì khóc mà đi về, sau không thấy trở lại nữa! Phần tôi, khi chữa bệnh cho 3 người đang ngồi đợi đó, ai cũng giật mình bảo: “Bàn tay chị lạnh ngắt như nhúng vào nước đá!”.
Đó là lần đầu tiên tôi biết đến sự đáng sợ của bùa…
* Bùa chú có nhiều dạng, nhiều cấp độ mạnh yếu khác nhau, mức độ tác hại cũng vô chừng - Loại nhẹ nhất là bùa của Tổ Tông nghiệp nhà, do âm binh thường, những âm vong xiêu lạc, giống như một đội quân thiếu chính quy.
* Cao hơn nữa là đội quân được đào luyện mặc cùng một sắc phục, quân binh của những vị Thầy chuyên nghiệp, thuộc dạng quân “thiện chiến”.
* Loại “hùng hùng hổ hổ”, chưa kịp nhìn thấy người đã nghe lạnh dọc sống lưng từng luồng là binh của Chúa Quỷ, cả đội binh toàn ngạ quỷ, hai mắt đỏ ngầu sắc máu!
* Ngoài ra, còn có binh của Quan Thánh Đế quân mặc sắc phục toàn đen.
* Bùa của người dân tộc miền Thượng cũng rất đáng sợ, vì họ sử dụng ma xó, ma rừng… Loại bùa này không có quân số cố định: có lúc hai, ba binh; khi bốn, năm; hoặc dùng toàn ma loài vật như: chó sói, chồn, rắn rít, con vắt, khỉ dã nhân, con vượn, báo…
* Loại bùa Miên (còn gọi là cà tha) thường ít khi sử dụng binh, gọi đây là phép thư, phép ếm đối thì đúng hơn! Phép này rất chính xác, dữ và độc!
Có lần tôi thấy bùa Kampuchia của Pôn Pốt, là binh chính quy, họ mặc giáp trụ màu vàng, y như quân lính Hoàng gia, mang cờ xí và trang bị vũ khí gươm đao chứ không dùng súng.
Loại bùa Miên, những ông thầy gỡ bùa ai cũng sợ: lơ mơ giải ra không xong là bị nôn ra máu chứ chẳng chơi!
Loại khó giải nữa là bùa dân tộc, vì nó đa dạng và khó tiên đoán, thầy giải bùa hay bị lầm, đi đến chỗ giải không được hoặc tác dụng không đủ…
Đa số các loại binh pháp đều hành theo Lệnh phù, những việc không liên quan họ không can dự! Tuy nhiên, cho dù có là những âm hồn hay âm căn đi nữa, kẻ dữ cũng biết nghe lời đạo lý! Tôi thường ít khi phải sử dụng “biện pháp mạnh”, chỉ lựa lời phân giải, khuyên can, các Thần Tướng điều binh sẽ tự nguyện cho tôi xóa Lệnh phù, sau đó tùy theo nguyện vọng của họ, tôi cho “giải giáp binh gia” trả họ về đời sống tự do hoặc đưa vào Chùa tu, hoặc trả về cho Thầy Tổ…
Có lần, tôi “uốn lưỡi” nói lý lẻ một hồi, vị Thần của một dòng tộc danh tiếng nọ chịu “cải tà quy chánh”, xin tôi bằng lòng thu nhận ông cùng 500 binh của mình theo về làm việc cứu nhân độ thế!
Tôi từ chối, nếu không thì đến nay tôi đã làm một bà Thầy Pháp cao tay ấn rồi…
* Có một chị làm nghề mua bán gạo, nhà ở chợ Gò Vấp, chồng là Giáo sư! Hai người có cô con gái lớn 23 tuổi đang học Đại học năm thứ 3 tại Mỹ thì phát bệnh tâm thần… Gia đình đưa về Việt Nam chạy chữa rất nhiều nơi không khỏi, quay sang tin tưởng Thần quyền! Được “xác Đồng” ở đâu đó phán bảo, người Mẹ về lập điện thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bà chúa Sứ) trên tầng lầu 1 nhà mình.
Hôm ấy, tôi và Lan (học viên Nhân điện) xuống nhà chị. Lên lầu thấy ngay một điện thờ nho nhỏ, trong ấy thờ Bà Chúa Sứ lộng lẫy, oai vệ với tràng phang, bảo cái đủ đầy… chung quanh có thờ nhiều vị Phật và Cửu Huyền, tất cả đều đẹp đẽ và sang trọng, chuông mõ (loại chuông đại, mõ đại). Bên trong chuông, tôi tìm thấy vài tờ giấy ghi tên tuổi, lời cầu xin của ai đó, chị cho biết điện thờ này thiêng lắm, nhiều người tới xin đều được!
Tuy nhiên, tôi phát hiện ra trong căn nhà của chị đầy binh, lại là binh của các chi phái khác nhau. Chị nói: “Hồi cháu bệnh, vợ chồng tôi cầu vái tứ phương, thỉnh bùa về để trị bệnh cho cháu đó. Khi phần nhập về, cháu xưng là đệ tử ruột của Phật Thích Ca, giảng đạo nói pháp giỏi lắm!”. Xác xưng đệ tử Phật, vậy mà Đồng bảo thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bên Địa Tiên) cũng nghe! Bệnh của con chạy chữa hoài không hết, lại mang nợ năm mươi triệu vô phương chi trả, thực tội cho người Mẹ cả tin! Cô con gái ở trong phòng đóng kín cửa, cười rú lên từng tràng, ai nghe thấy cũng phải rùng mình… Lan nhảy lên tấm thảm chùi chân đứng, nói: “Có gì ghê quá chị ơi! Nó chạy vô chân em rần rần như có điện vậy!”. Tôi nói: “Binh đó! Toàn là “thứ dữ” không hà!”.
Tôi thắp hương, xin Điển Địa Tiên về hỏi và được báo: trong điện thờ này không có Điển của chúa Sứ Nguyên Nhung, cũng không có phần Điển nào của Địa Mẫu ngự về… Tôi xin: “Mẹ có cho phép con tra án hay không?”. Điển báo: “Cho phép!”. Cẩn trọng, tôi hỏi lại: “Xin cho con biết Điển nào chuẩn án!”. Lời văng vẳng bên tai: “Lê Sơn Thánh Mẫu!”.
Tôi xá một xá tạ ơn Mẹ Lê Sơn, xong hướng về tượng Chúa Sứ khấn: “Nếu ở đây có ngự Điển của Bà Chúa Sứ, xin cho phép tôi quỳ lạy 3 lạy đảnh lễ…”. Vừa khuỵu chân xuống định quỳ, tự dưng có một lực nào đó dựng đứng hai chân tôi lên, không cho quỳ, cả 3 lần đều như thế!
Tôi chấp tay khấn: “Nếu thế thì xin cho con xốc áo mão cân đai lên xem cái gì ở trong ấy!”. Tôi đưa hay tay về trước, phóng điện vào trong áo choàng của Nguyên Nhung, thấy nhảy ra tức thì một ông già hom hem, tuổi độ 70, mặc áo thụng màu đen, ngồi co ở bên cửa!
Người ấy xưng tên là Trình Tính, 70 tuổi, nguyên là Tướng Trời! Người khai mình có 2300 binh, tôi ngẩn ngơ: “Chúa Sứ Nguyên Nhung có 2500 binh, ông làm chức gì mà có đến 2300 binh?”. Hỏi Lệnh Ấn, ông ta gục đầu không trình ra được… Thế là tôi cho thiên binh trói nghiến nhốt vào KTT!
Vừa nghe tôi tả lại, chị hỏi dồn: “Có phải ông về ở với con gái tôi hay không?”. Ông ta xác nhận là đúng như vậy, người Mẹ kêu trời: “Hèn nào nó cứ hay nói: “lão Tổ của ta nói như vậy đó!”.
Quay lại, tôi bước tới cửa phòng đóng kín, nhẩn nha nói: “Nghe đồn ở đây có điện thờ đẹp đẽ mà linh thiêng lắm, tôi tới thăm mà không thấy cô chủ ở đâu để chào một tiếng!”. Tiếng cười nín bặt, cô bé lần tới sát cửa nghe ngóng, lát sau hé cửa bước ra… Tôi mời ngồi, phỏng vấn: “Nghe nói con học giỏi lắm ở bên Mỹ, sau bị bệnh mới trở về Việt Nam phải không? Gia đình, ba Mẹ lo lắng cho con biết bao… 23 tuổi, con trả hiếu được gì cho cha Mẹ chưa sao để Mẹ thương con lo đến bạc tóc vầy nè!”.
Cô bé trả lời “tỉnh queo”, giọng cứng cỏi: “Dạ chưa! Con là đứa bất hiếu mà!”. Xong, liếc sang người Mẹ ngồi kề bên, cô bé đổi giọng khiển trách: “Mẹ nói phải không? Có phải Mẹ nói không?”. Người Mẹ run bắn, trả lời lắp bắp không thành câu: “Không phải Mẹ… Mẹ có nói gì đâu!”. Cô bé quay sang tôi: “Con xin lỗi! Con mệt, con đi đây!”.
Đi tới cửa buồng, cô bé quay lại nói: “Mẹ hứa đưa con đi chơi, nhớ không! Năm giờ rồi!”. Một cách đuổi khách rất lịch sự, ai bảo cô bé ấy tâm thần?!
Chuyến ấy, chị em tôi thua! Giăng một mẻ lưới, bắt được một con cá to, nhưng vẫn còn tự nguồn cội tâm linh những mắt gút của cuộn chỉ rối chưa gỡ được… Nhân duyên chưa đủ hay nghiệp quả còn dầy? Có thể là cả hai, trong những trường hợp nặng nề tương tự, nếu gia chủ kiên trì trở lại nhà tôi thêm vài lần nữa… Thể nào Ơn Trên cũng xót lòng mà cứu! Nhưng nếu án này mà giải tới cùng, tôi bị “đòn trả” cũng mệt đừ!
Đêm ấy, tôi xin Mẹ Diêu Trì về bàn giao viên tướng Trình Tính, xin cho trường năng lượng đưa 2300 binh giao về trên. Lạ và rất đẹp, tôi thấy có nhiều đợt mây màu hồng bốc từ dưới thấp lên cao rồi dần tan mất, tôi biết đó là năng lượng chuyển các chư binh về trên…
Trong nhà ấy còn nhiều binh pháp, âm binh mà quậy thì đất bằng cũng còn dậy sóng nữa là… Phần người Mẹ, một mực cứ tin rằng có Chúa Sứ Nguyên Nhung trong điện thờ của mình. Tôi và cô Lan hỏi Điển bảo không, nhưng bà chủ điện hỏi Điển vẫn bảo rằng có. Tôi lại hỏi: “Cho tôi biết Điển nào vừa ứng báo?”. Trả lời: “Điển Cửu Huyền!”.
Vì không phải là tín đồ Đạo Mẫu, tôi chẳng biết thực hư ra làm sao, tối về hỏi lại Mẹ Diêu Trì, Mẹ bảo: “Không được thờ Bà Chúa Sứ ở nhà riêng!”
Con người vốn đam mê quyền lực, sai đường lạc nẽo không hay, khi xác trần chưa có Lệnh Ấn thì Điển Trên không về, phần tà nào đó nhảy vào chấp lệnh, ra oai để nhận lộc lễ, chúng ta thì chỉ biết nhắm mắt tin bừa, thỉnh một “Ông Tà” về đặt lên ngôi cao, diệu võ dương oai thay trời hành xử! Công hay tội, phúc hay là họa… điều ấy người trần thế mấy ai được biết!
Nhớ lại chuyện cô Hương (học viên Nhân điện), cô Hương cũng bị Điển Tổ nghiệp án vào làm cho ứng báo sai lệch theo ý họ. Đến nỗi rước Bà Sư Phụ yêu tinh vào xác, chịu hoạn nạn dồn dập gần hai năm trời…
* Có một vị nguyên là Lương y Quốc gia, có hai bằng bác sĩ Đông và Tây y, là Thầy dạy bác sĩ, có chức danh lớn! Trước ông ở Mỹ, nay trở về định cư tại Việt Nam, có một phương thuốc gia truyền viên thành viên nhỏ xíu mà ông bảo rằng trị được bách bệnh… (tôi xin phép được dấu danh tính!)
Nhìn bề ngoài của ông, ta có ngay lòng tin của một vị Lương y hiền lành, đức độ, vị tha và hòa ái! Tôi quý ông ngay lần đầu tiên gặp mặt, nhìn ra phần Linh căn của ông là một vị Bồ Tát mắc đọa… Tôi giới thiệu vài người đến ông để khám bệnh, bốc thuốc!
Một hôm, tôi đưa Mẹ con chị bạn đến nhà ông mua thuốc về uống, được hai ngày thì phát lên dị ứng đầy người! Điện thoại lên nhờ tôi chữa… Khi đưa điện vào đứa con gái, tôi nghe ứng báo có một cái gì đó rất lạ, chuyển năng lượng sang trục tà, từ huyệt Bách Hội (Luân xa 7) đẩy xuống hai bàn chân, tôi rút ra cơ man nào là rắn, con nào con nấy chỉ nhỏ bằng ngón tay út, dài độ chừng hai gang tay, bầy rắn uốn éo phóng ra từ hai bàn chân, chạy mất!
Sang người Mẹ, tôi cũng lôi được một mớ rắn, con nào con nấy lờ đờ cứ như “tắc kè say thuốc lào!”. Tôi đưa bàn tay lùa tới, chúng uể oải uốn éo một cách lười nhác tránh sang bên… Thì ra với những người có năng lượng bùa phép án vào bị liệt, thuốc uống vào không có tác dụng hoặc có ít!
Đêm trước, tôi nằm mơ thấy một việc lạ: thấy tôi đưa người tới nhờ bác sĩ điều trị, vui chân bước ra nhà sau, tôi nhìn thấy có nhiều hộc gỗ, trong đó chứa đầy lươn, lịch, cá chình, lại có vài con rắn độc bò lơ ngơ… Những con cá, lươn bị chặt mất nửa đuôi, còn lại những cái đầu đầy máu còn sống, trong khoang gỗ nhầy nhụa những máu và nhầy nhớt trông rất kinh khủng!
Tôi hỏi: “Anh làm gì với những con này vậy?”. Ông anh nói: “Làm thuốc!”. Đang bức xúc, tôi buột miệng: “Làm con nào ra con ấy đi, để giở sống giở chết vầy trông tội quá!”. Ông ấy liếc tôi một cái, sợ quá tôi bước mau lên nhà trên, rồi giật mình tỉnh giấc…
Những giấc mơ ứng báo bao giờ cũng chính xác! Ngay tối hôm sau tôi khám phá ra trong thuốc ấy đầy binh… rắn!
Hai anh chị ấy cũng quý tôi, hay tìm lên nhà chơi, chị than: “Anh hay tụng Kinh Dược Sư và Chú Đại Bi vào thuốc để trợ thêm tác dụng, nhưng lại không kiêng sát sinh, các loại động vật mua về phải còn sống thì anh mới ăn!”. Hèn nào mà tôi mơ thấy những hộc gỗ và những con vật đầy máu…
Tôi lựa lời khuyên anh: “Theo Kinh giảng, người muốn tụng Chú linh nghiệm phải ăn chay và tắm gội sạch sẽ, liên tục trong 7 ngày! Anh làm thế Chú không thiêng!”
Lần đầu tiên lên nhà tôi, anh không nhận có bùa trong thuốc. Lần thứ hai, anh bảo: “Lúc anh 13 tuổi, cha có nhờ 3 vị thầy đến nhà để dạy các phép. Anh có lãnh Sớ Tổ đem về để trên bàn thờ nhưng không hành phép, dụng binh!”.
Tôi nghiệm ra: có lẽ vì anh còn sát sinh nên tụng Chú không linh ứng! Do vậy các vị Thần Tổ trên bàn thờ mới chuyển binh pháp vào hỗ trợ, từ đó trong thuốc có binh…
Chị N.T cùng con gái, cậu Phòng, cô Phi và Mẹ uống thuốc vào đều có tác dụng phụ nặng nề: ba người dị ứng đầy người, cậu Phòng đang đi chơi biển Phan Thiết điện về cho tôi, tôi chữa hai lần mới hết sốt và rét, cô Phi vì đang bệnh nặng nên chữa đến bốn lần (hai ngày mới khỏi). Mẹ Phi bị dị ứng cả người, chữa 3 lần vẫn chưa dứt hẳn, tôi phải giải binh ra mới hết…
Anh xem mạch bốc thuốc lấy tiền… tác dụng phụ thì tôi lảnh! Về sau, anh có báo cho tôi biết: “Suy nghĩ lại thấy em nói đúng nên anh không sát sinh nữa và đợi ngày chay đem thuốc ra tụng Chú lại hết!”.
Sau, anh nói với cô Phi: “Cô Lan có hỏi thì con nói Bác không dùng bùa chú nữa, nhưng thuốc của riêng con Bác vẫn phải cho bùa vào, vì bệnh của con là bệnh âm!”… Cô Phi hỏi tôi: “Chị có lên lầu nhà Bác ấy không? Bác để ở bàn thờ dưới đất những cục đá tròn tròn, cu Thái (con cô Phi) sờ vào, bác ấy rầy: “Đừng cho cháu phá, binh không ở trong đó!”.
Khi hai anh chị lên chơi nhà lần đầu, tôi ứng thấy có nhiều vong hồn chiến sĩ Thủy quân lục chiến đứng trước nhà, dọc theo bờ kênh, và thấy trong nhà đầy binh pháp. Chị kể lại một giấc mơ cách đó hai hôm: mơ thấy có mấy người mặc đồ lính Thủy quân lục chiến đi từ ngoài cửa vô nhà! Chị la lên: “Mấy người làm gì vô nhà tôi?”. Họ nói: “Vô chút xíu ra liền!”… Có thế, rồi chị thức dậy…
Cô Phi Bị bướu độc trong bắp chân, uống thuốc vào hành đủ chứng, bác sĩ cũng thua, và tôi cũng phải vất vả lắm mới chận được tác dụng phụ ấy. Ông bà xưa bảo “Phước chủ may thầy” quả đúng - Thầy giỏi mà bệnh nhân hết số cũng thua, dẫu “Hoa Đà tái thế” cũng làm sao chuyển được mệnh trời!
Một bác sĩ định cư tại Mỹ, mỗi lần về Việt Nam thuyết trình trước hàng ngàn bác sĩ của các bệnh viện. Có phương thuốc gia truyền quý trị được cả bệnh ung thư, với phương châm: “Không sử dụng hóa chất trị liệu, không mổ xẻ mà hết bệnh!”. Cuối cùng cũng lắc đầu chào thua 3 cục bướu nhỏ chỉ bằng ngón tay…
Cô Phi Bệnh vẫn y nguyên, uống thuốc vào phải kiêng ăn nhiều thứ, lại bị hành đủ chứng, người càng ngày càng gầy rộc đi, đến lúc bị choáng ngất xỉu vài lần khi đang lên lớp giảng bài đành phải ngưng uống thuốc! Ngẫm lại mới thấy định nghiệp thực là đáng sợ: chết không chết được mà sống cũng sống không yên!
Một bác sĩ danh tiếng vẫn còn phải sử dụng bùa phép để trợ cho y khoa, trách sao mọi người chẳng chuộng! Quyền phép của các Đấng và Âm binh rẻ đến nỗi chỉ cần ly cà phê, vài điếu thuốc lá thơm, một tô phở đáng giá chừng hai chục ngàn đồng là có thể có một lá phép điều binh. Thực uổng phí cho bao công lao dày công luyện phép!
Nếu quyền phép ấy vào tay những vị Thầy đạo đức và có lương tâm, sẽ trở thành bàn tay cứu sinh. Biết bao nhiêu người khổ nạn được xoa dịu, ủi an. Cuộc đời này chắc sẽ đẹp hơn nhiều… Mong lắm thay!
* Tôi xin phép khuyên những người có sử dụng bùa chú như sau: thỉnh thoảng nên cúng chiêu đãi binh gia một lần, có no đủ, họ mới tận lực giúp ta!
Sau một thời gian phù hợp (tùy theo công việc mà ta đã chuộc phép), ta nên cúng “Tống tiễn binh gia”, trả phép, tiễn binh trở lại với thầy Tổ, lễ vật cúng tiễn như sau:
- 2 bát gạo
- 1 đĩa thịt luộc xắt lát (hoặc thịt quay)
- 2 ly nước
- 5000 đ giấy tiền vàng bạc
- 5 điếu thuốc (có thêm cà phê càng tốt)
Tất cả đặt lên mâm cùng với lá bùa, để trên ghế hoặc bàn nhỏ, ngoài cửa chính căn nhà, về phía đường đi (nên nhớ không để trong nhà, binh nhận lộc xong sẽ lẩn lút ở lại. Không để trong khuôn viên cửa nhà, binh sẽ không được phép nhận)
* Khấn: Tôi tên…………………………… Nguyên trước tôi có thỉnh 1 lá phép tại ……………của thầy! Nay công việc đã xong, tôi xin phép chiêu đãi tiền bạc và lộc thực để tiễn trả các vị Thần chủ và binh gia, về với thầy Tổ của mình. Xin các vị nhận lộc lễ rồi ra đi và cho phép tôi xóa lệnh phép, không một ai còn ở lại trong nhà tôi hết, tôi xin cảm ơn!
- Đốt 3 nén hương, đọc bài khấn xong cắm hương, quay lại đốt lá phép cùng tiền bạc, chờ thêm 10 phút nữa thì ta dọn cỗ cúng. Đồ cúng đem vào ăn cả, không bỏ gì!
Có nhiều người hoàn cảnh khó khăn, cúng xong vì sợ mà không dám cho con cháu trong nhà ăn, lộc thực đem cho người ngoài, phải tội con trẻ “nhịn thèm”!