VỊ LAI PHÁP

{{app.isOpen() && app.isMobile() ? 'close':'menu'}}
search
share

{{group.groupName}}

  • {{item.name}}
{{bookPage.isOpen() && bookPage.isMobile() ? 'close':'format_list_bulleted'}}
Kinh sách - Huyền Môn Lược Ký (Quyển 2)
print share close
  • {{item.pageName}}

Thực hành cụ thể (11)

 

Cô K., có văn phòng môi giới bất động sản ở Hóc Môn, một hôm nhờ người quen dẫn ra gặp tôi, xin Ơn Trên về giải dùm nghiệp chướng - cô thú thực là mình yêu người đàn ông có vợ! Trong lúc cô cũng đang có chồng con đàng hoàng, hạnh phúc và mãn nguyện… Trái tim ngã nhưng lý trí không cho phép, cô đã chạy vạy khắp nơi tìm thầy để giải oan nghiệp, nhưng chẳng tác dụng gì…

Tôi nhìn cô, thấy ngay phần Linh căn một nữ Thánh tu, khuôn mặt đẹp thanh tú giống y như Đức Mẹ Maria, với mái tóc thề bỏ xõa!

Tôi mời Linh căn về cho tiếp xúc và xin góp ý trong hoàn cảnh này, nữ Thánh ấy tới bên tôi quỳ xuống nói nhỏ vào tai: “Con có ý vầy! Bên bỏ chồng bên bỏ vợ lấy nhau là xong. Chúng con có tiền duyên, xuống đây tìm nhau mà gặp nghịch cảnh nên mới khổ vậy đó!”.

Ngay tức thì, tôi thấy Mẹ Quán Âm nhập vào, người đưa tay nâng cằm cô gái lên: “Khuôn mặt trông xinh đẹp vậy mà đê tiện. Muốn phá nát gia cang người ta sao… Đi về cung Nội Đâu Suất ta cho quỳ đội đèn. Biến!”. Lời vừa dứt, nữ Thánh Cô biến mất tiêu!

Quay lại, Mẹ Quán Âm nói: “Ta giải nghiệp chướng cho con, ráng mà sống cho tốt với chồng con nghe chưa!”. Vung tay, đưa Điển vào đỉnh đầu cô K, xong Phật Bà rời đi…

Chuyện nghe như đùa vậy thôi! Thế mà ngay tối hôm sau, cô K. ra nhà tôi, mừng vui báo tin: “Mẹ Quan Âm giải xong, sáng hôm sau em nhìn thấy ông ấy bỗng dưng nghe… lạt nhách, không còn chút nào tình yêu thương, si mê nữa! Đến nỗi ổng ngạc nhiên hỏi em tại sao qua có một đêm mà em thay đổi 180 độ như vậy - Em chỉ cười không nói gì cả mà trong lòng nghe nhẹ bâng, chị ơi!”.

Khi cô K. tới, tôi thấy có vong một bé trai chừng dưới hai tuổi trần truồng đứng kề bên. Tôi hỏi thì bé chỉ vào cô K. bảo là Mẹ của mình. Tôi hỏi, cô K. nói: “Đi  coi thầy, thầy nói nó là Trạng, bảo em lập bàn thờ đàng hoàng cúng áo mão cân đai đủ thứ. Sao giờ lại trần truồng?”. Tôi giải thích: “Nó là âm vong, không phải Trạng, cúng đồ Trạng nó không mặc được nên mới trần truồng như vậy đó!”.

Để cho cô K. tin, tôi đặt tay lên đỉnh đầu hỏi Điển. Đầu cô tự lắc ứng báo rành rành, có người bạn gái của cô ngồi bên làm chứng, tự cô K. cũng nghe thấy đầu mình lắc… Thế là tôi xin Điển Trên cho ngày giờ linh ứng để cô K. xóa trang thờ Trạng và đưa vong đi đầu thai…

Lần sau cô K. đến, tôi thấy có một người đàn bà vong ngạ quỷ theo sau, ra vẻ đau đớn lắm. Bà bảo là Mẹ chồng của cô. Quả nhiên cô K. nhận là mình có Mẹ chồng chết do bệnh ung thư tử cung!

* Một thời gian sau, cô K. dẫn vào một đứa cháu trai gọi bằng Dì, quê ở tận ngoài Trung.

Cậu bé học lớp mười, bị động kinh từ năm sáu tuổi, không thuốc nào trị hết được! Trông cậu bé mà xót xa: tay chân ốm trơ xương và gân, người bé loắt choắt chỉ độ bảy, tám tuổi - Có ngày bị động kinh năm, sáu lần, mỗi lúc lên cơn ra vẻ kinh hoảng tột độ, chạy tìm người lớn ôm cứng lấy và la cầu cứu, chừng qua hết cơn thì trở lại bình thường, học giỏi nữa mới lạ!

Tôi trụ thần nhìn thấy một người đàn ông phần trên cổ là một đầu rồng màu xanh lục đậm, tôi chào – mời vào nhà! Người ấy không vào, chỉ đứng ngoài sân… bảo với tôi: “Thằng bé ấy hồi học mẫu giáo bị té sông, tôi cứu cháu sống đó, tôi là Thần Rồng!”. Tôi hỏi: “Chắc phần hồn của cháu thấy ông theo hoài nên sợ mà động kinh phải không?”. Ông lắc đầu: “Không phải tôi, kia kìa!”. Tôi nhìn ra ngoài đường thấy hai con vật dị thường, đưa tay vẫy, chúng lập tức bò vào…

Trông vẻ ngoài giống như loài bạch tuột da màu đen bóng nhẩy, với những xúc tu thật dài, trên những đầu vòi trơn tuồn tuột ấy, không thấy có giác hút như của các loài mực. Hai con mắt bé xíu tròn xoe màu đỏ hồng, nhướng lên, nhìn tôi trông vẻ “ngây thơ vô số tội”! Chúng bò đến đâu, kéo theo sau lưng những vệt nhớt nhầy màu xám bạc…

Tôi ngẩn ra, không biết gọi chúng là gì nữa: ông hay bà, đực hay cái? Sau tôi xin tiếp Điển (là kiểu giao tiếp chung bằng tư tưởng), biết chúng là loài mà ông bà ta xưa truyền miệng hay gọi là “Ma da”, chuyên ở dưới nước và quấn siết người, dìm cho đến chết!

Cô K. nhận đúng vào lúc bé còn học mẫu giáo đã bị té sông một lần, có người trông thấy kêu lên cầu cứu, cậu của đứa bé bơi ra vớt được, may mà còn sống…

Tôi sực hiểu, thì ra số cậu bé đã chết năm xưa, nhưng vì ông Thần Rồng nhìn thấy thương tình cứu sống. Hai con Mada (một cha một con) không làm tròn nhiệm vụ nên cứ lẽo đẽo bò theo đòi mạng hoài, hồn thằng bé sợ nên bị động kinh…

Trước tiên, tôi dụng kế hoãn binh, nói: “Tôi biết các ngươi chỉ làm nhiệm vụ ở dưới nước quen rồi, giờ lên bộ như vậy khổ sở lắm. Tội nghiệp quá, để tôi xin chiêu đãi một lần cho đỡ đói nha!”. Chúng đòi ăn cá lóc và cua đồng, rau thì đòi “cỏ bợ” (còn có tên là rau dừa nước). Thấy khó tìm, tôi đề nghị đổi rau muống nước chúng cũng chịu. Đòi mua đồ sống khấn cúng xong rồi đem ra sông thả! Bánh trái tiền vàng bạc nén chúng chê bảo là không dùng được, thì ra “đàn dưới” không sử dụng được lộc thực của “đàn trên”.

Sau đó, tôi chữa thêm có bốn, năm lần cậu bé hết động kinh! Nhưng tôi biết nếu trở về quê hoặc nơi gần sông nước sẽ bị lại như cũ, nên khuyên cô K. thu xếp cho cháu về thành phố, tránh xa vùng sông nước.

Kinh nghiệm nhiều năm cho tôi biết: quyền lực của các Đấng chỉ hiệu nghiệm với cõi trên, cõi hữu hình và cõi vô hình (loại sống ngoài vòng địa ngục). Cõi dưới nước (Thủy Cung) và Diêm Cung (địa ngục) là nơi quyền phép bất lực, tương tự như “rừng nào cọp ấy” vậy mà…

Còn một điều nữa: ở “Đạo giới” khác cũng cần phải thận trọng khi điều tra, hành xử hay phá án, giống như họ ở trong một “Khu tự trị” riêng! Phép của nhà Phật không thâm nhập được vào nơi thờ cúng của Đạo Chúa hay Địa Tiên, Hòa Hảo, Cao Đài… Tuy nhiên, nếu khéo léo, ta vẫn có thể xin sự hỗ trợ của các Đấng Chủ Quản!

Chuyện này tôi sẽ chứng minh cùng các bạn ở chương sau, thập phần lý thú!

* Chồng cô Bình (học viên Nhân điện) bị đau bụng tiêu chảy liên miên cả tuần lễ liền, uống thuốc chi cũng không cầm! Tới tôi, nghiệm ra do âm vong quấy phá - Tôi truy bắt ra 3 tên ngạ quỷ! Chúng xưng mình là 3 vị Thần có tội bị lưu đày mang hình tướng quỷ, hiện đang ở chỗ chồng cô Bình làm việc. Họ vẽ cho tôi thấy một nơi dơ bẩn, nước đen ngòm, tro than chất hàng đống, 3 âm vong đứng dầm chân trong bùn dưới một gốc cây trông rất thương tâm!

Tôi tả lại địa điểm mình nhìn thấy, cậu nhận đúng là nơi cậu đang làm than đá! 3 âm vong xin tôi hỗ trợ cho dời sang phía trước mặt có một xưởng cơ khí, nơi mặt tiền sạch sẽ khang trang hơn…

Tôi bày cho cậu về nhà cúng một đĩa tam sên, trà rượu và ít tiền bạc chiêu đãi cho 3 vị Thần, kẻo họ đói khát mà tội! Phần tôi xin phép Mẹ Diêu Trì cho chuyển 3 vị ấy sang bên kia đường… Chỉ có thế, tôi chữa một lần cậu giảm bệnh ngay lập tức, chữa thêm hai ngày, hai lần nữa cho chắc chắn, là xong.

* Cô L. (học viên Nhân điện) ngày trước rất hay bị phần âm phá. Cả gia đình: cha Mẹ, anh chị em và các cháu gặp hoạn nạn thất thường đến “thất điên bát đảo”. Suốt hai năm trời, tôi chống chỏi cũng muốn khùng theo!

Ngày xưa trong tộc Tổ có người làm Thầy Bùa, Thầy Pháp chi đó không biết, miếu thờ Tổ nghiệp vẫn còn bên nhà người chú, binh tướng thì tản mác mỗi nơi một ít, bên nhà cô L. có hai Thần Tổ nghiệp cùng 120 binh tướng, vong hồn chiến sĩ cũng đầy. Nghiệp Tổ truyền đời, nếu không có người nối dõi, con cháu bị hành ghê gớm lắm. Đời nào cũng có người điên loạn, giở người!...

Cô L. có phần Linh căn là Thánh Cô, đệ tử của Trì Địa Bồ Tát, chắc cũng có chút tội mới sinh vào trong nhà có toàn Linh căn là Thần cách: Cha Thần, anh Cả Thần, chị gái cũng Thần, còn một đứa em trai cũng là Thần cách nốt! Mẹ của cô L. lại có Linh căn là Thánh Mẹ… Cô L. người trắng trẻo, xinh xắn, gần ba mươi tuổi chưa có gia đình, cũng không có bạn trai hay người yêu!

Nhân duyên đến lúc muốn chuyển căn theo đường Đạo thường phải chịu nạn tai dồn dập… có thế xác trần mới ngộ được sự vô thường mà lo tu! Một hôm cô L. bị lên cơn động kinh, tôi chữa (gián tiếp qua điện thoại) cứ xuống cơn chừng mươi phút lại lên. Người nhà điện gọi liên tục, tôi nhờ A. Ch (huynh trưởng nhân điện) chữa cũng chẳng ăn thua… Vật vã từ trưa đến tối thì hết, từ đó chỉ ôm mặt khóc, ai hỏi gì chẳng đáp được câu nào!

Sau cô L. sợ quá theo tôi học Nhân điện, vừa mở luân xa, Linh căn đã về, xưng là Thánh cô tu ở cung Ngoại Đâu Suất! Lúc đó, gia đình cô L. đang ở vào thời nạn tai dồn dập vô phương chống đỡ… Người trong nhà trở chứng này, bệnh nọ đột ngột hoài thuốc men cũng chẳng ăn thua! Mỗi người bệnh đưa xuống tôi lại mò ra một Thần cách, hai đứa cháu trai đều là Thánh… Phải nói là một gia đình kỳ lạ!

Bây giờ tôi mới hiểu lời Mẹ giảng như thế nào là “cộng nghiệp”: có cùng một nghiệp mới sinh vào chung một nhà làm cha Mẹ, vợ chồng, con cái… để cùng chịu những chướng nghiệp như nhau!

Anh cả của L., cậu P. vốn là em kết nghĩa của tôi từ mười lăm năm nay, sau này khi L. học Nhân điện, tôi thương L. còn hơn em ruột của mình - Vì thấy cô em suốt ngày lủi thủi trong nhà chịu thương chịu khó, người lại xinh xắn giỏi dang…

Suốt một thời gian dài, người trong nhà liên tục đổ bệnh, những bệnh chứng bất thường mà thuốc men chẳng ăn thua gì! Khi đưa xuống tôi, tôi khống chế được cũng chẳng dễ dàng, và “chịu đau thế” cũng không ít… Gần hai năm, sau nhiều lần vận động, Thần Tổ nghiệp mới bằng lòng cho “giải giáp binh gia”, đưa 120 binh vào Chùa gởi, từ đó mới yên ổn trở lại…

Một ngày, cô L. hỏi ý kiến tôi xem có nên trở lại may gia công cho cửa tiệm của một người quen cũ hay không. Tôi trụ thần, thấy cô chủ tiệm may ấy tốt và quý L. lắm, tôi khuyên L. nên đồng ý! (Lúc này cô L. đã học Nhân điện đến lớp 10, trình độ tâm linh cũng cao)

Vừa làm được một ngày, sang ngày thứ hai cô L. đã bị hành nôn mửa liên miên… Cô L. điện mấy lần, nhưng lúc đó tôi đi vắng đến 7 giờ tối mới về - Tra rõ căn nguyên, tôi biết rõ bệnh trạng không phải của xác trần, mà do phần âm phá! Tôi bảo cô L. trụ thần nhìn vào chỗ nhà may, nơi cô đang may gia công. Theo đó, tôi đưa Điển vào kiểm tra, thấy trong nhà có người làm Thầy Bùa Thầy Pháp chi đó - Có thờ cúng linh tinh và bàn thờ lạ cách lắm!

Cô L. nhận là Bà cụ nhà đó làm Thầy có trang thờ hai Cậu Trạng. Nghe vậy tôi biết ngay là bị Trạng hành! Âm phần không thể phá cô L. được đến vậy…

Tôi biết các vị có chức danh Trạng thường tài giỏi và kiêu ngạo lắm. Thấy cô L. có khai mở tâm linh nên cho phép vào đánh chơi “cho biết mặt”!

Người học Nhân Điện được khai mở tâm linh có nhiều điều lợi, song cũng có điều bất lợi là thu hút tà lực, giống như khối nam châm có từ tính vậy…

Tôi bày cô L. cúng một đĩa tam sên ở nhà L., xin tạ lỗi với hai Cậu Trạng, vì đã đến đó làm việc mà không xin phép “Quan lớn”.

Chiều hôm sau nữa cô L. xuống nhà tôi, tôi trụ thần thấy theo sau là hai cụ già hom hem mặc áo thụng màu đen! Khi tôi hỏi, họ xưng là hai Trạng ở nhà may, ngạc nhiên tôi hỏi: “Hôm qua đã cúng xin lỗi rồi, chả lẽ chưa bằng lòng sao các người còn đến đây?”. Một ông bảo: “Chúng tôi không nhận được lễ vì lễ cúng Trạng Cậu, còn chúng tôi là Trạng Ông!”.

Trời đất! Lại còn đến thế nữa - Xưa nay tôi chỉ nghe Cậu Trạng, Cô Trạng nhỏ xíu, hoặc nam trung, có nghe “Ông Trạng bao giờ!”. Thôi thì cũng uốn lưỡi hạ giọng năn nỉ. Hai ông bảo: “Chúng tôi chỉ tới chào cô Hai thế thôi, có bắt bẻ gì đâu!”. Nói rồi chào ra đi…

Người trần thế, hoặc các vị làm thầy: Thầy Bùa, Thầy Pháp, Thầy Cúng chi đó… thường cứ theo phép Tổ mà làm, đâu biết các cõi muôn hình vạn trạng, kẻ có nhiều tài phép thường sinh tâm ngạo mạn ức hiếp, áp đảo người cô thế chẳng chừa một ai! Đến lúc tội ác đã dầy, Trên xử tiêu hồn lạc phách… Xác trần cậy thế làm oai, đem quyền thế biến ra lộc thực, lộc càng dầy thì tội càng nặng, đời con đời cháu ngày sau vướng nghiệp Tổ tông hoạn nạn, tật ách triền miên biết đến bao giờ cho hết…

Tôi nói đây cũng phải xin lỗi các vị làm Thầy, chẳng phải thầy nào cũng cốt vì lợi lộc riêng tư! Nhiều người cả đời lấy binh pháp mà cứu nhân độ thế, lợi danh chẳng màng. Họ là những Thần thánh giáng phàm, quả phúc dồn góp, đời sau con cháu thọ lộc Tổ tông làm nên danh phận mà rạng rỡ tông môn!

Nếu ai có chút tài mọn, cũng đem nó ra mà hy sinh, mà cống hiến, thì nhân loại ắt đã hòa bình hạnh lạc, chúng sinh đều được an vui…

Các vị Thầy Pháp có phép thu hồn, họ đi đến các nơi nghĩa trang, đền Chùa miếu mạo bắt giữ các vong hồn lang thang đem về làm binh tướng cho mình, sử dụng làm công cụ phục vụ, cũng còn may cho các cô hồn, vì họ biết mình có binh, có tướng, mỗi tháng cúng cho ăn một lần…

Riêng những vị làm Thầy theo nghiệp Tổ tông, không biết mình đang sở hữu bao nhiêu là binh, tướng, chẳng biết đâu mà cho ăn, cho mặc. Bùa phép đưa ra không biết cân phân phải trái, nên hư… Cũng không biết mình đang có bao nhiêu âm binh đi theo phục vụ vô điều kiện cho mình!

Binh cho đi chẳng thâu về, những vong hồn xiêu lạc bị trói buộc vào lệnh phù quẩn quanh tại chỗ… Rồi có khi chủ cũ rời đi, chủ mới đến ở, binh đói khát lang thang trong nhà quấy phá làm ra hoạn nạn, tai ương… tội cho “người ngay mắc nạn”!

Tôi cũng muốn nhân đây, vì lòng nhân đạo, gióng lên một tiếng chuông - cầu xin các vị làm Thầy: tất cả bùa chú hay lá phép đưa ra đều có binh án theo… Khi ra phép, xin ghi chép lại cho kỹ lưỡng ngày giờ năm tháng sau một thời gian phù hợp - “Đưa binh đi, xin nhớ đón binh về”, đừng để hồn xiêu phách lạc lang thang… Binh đưa đi hết chẳng thu về, mai không còn binh nữa, phép sẽ không thiêng, các vị Thần Tổ nghiệp phải thân chinh, nạn khó cũng vô chừng!

Phần nữa: mỗi tháng nên cúng cho binh tướng ăn một lần, đừng để họ đói mà tội nghiệp! Khi tuổi cao sức yếu hoặc muốn bỏ nghề, nên vì lòng nhân mà dâng lễ lên nghiệp Tổ nghiệp tông xin cho giải giáp binh gia, trả họ về đời sống tự do, đừng giam giữ oan hồn đời này sang đời khác mà vướng nghiệp quả nặng nề cho con cháu đời sau!

Mỗi tháng nên cúng vào ngày 13 âm lịch, cúng riêng hai nơi: Tổ nghiệp cúng trên bàn thờ Tổ hoặc bàn thờ Cửu Huyền, binh gia cúng bàn thấp đặt ở dưới! Cúng ngày 13 hoặc mùng 2, 16 (đúng giờ Ngọ: từ 11g15 đến 13 giờ).

Tôi cũng xin nhắc các bạn đọc: tất cả các loại cỗ lễ như giỗ chạp, cúng Vía ngày rằm, mùng 1, cúng cô hồn hay thượng trang… đều phải cúng đúng ngọ. Ngoài ra, cúng âm hay cúng cầu giải hạn, xả xui… ta cúng vào “giờ âm”, có nghĩa là từ 19g15 tối trở đi!

Lễ cúng Nghiệp Tổ, Thần Tổ: một đĩa tam sên, hoa trái, 2 trà, 2 rượu, tiền vàng, 2 bát gạo (thêm cà phê hay thuốc hút…)

Cúng chiêu đãi binh gia:

- 1 gói thuốc hút (nếu trong nhà không có người hút thì thôi)

- Để quẹt gas kế bên

- Khoai củ, bánh trái, tiền bạc

- 4,5 bát gạo đầy… tùy lòng hảo tâm mà ta cho nhiều hay ít

Nên cúng những thứ “ăn để no” như: bánh tét, bánh chưng, bánh mì hay cơm cháo…

Nếu có lòng, ta nấu 1 mâm cơm thịnh soạn mà cúng cả chư Thần Tổ nghiệp lẫn binh gia, cúng xong ta ăn tất cả, không phải kiêng kỵ chút nào!

Người xưa nay truyền miệng rằng không được ăn cỗ cúng cô hồn (ăn đồ cúng vong thì nói vong không nghe), hoặc chỉ cúng cháo loãng, không nêm nếm gì… (ngạ quỷ cần cổ bằng sợi chỉ, không nuốt được)! Nếu ta cúng vào đúng ngọ hoặc giờ âm, vong hồn sẽ nhận và ăn được các thứ, ta chỉ đốt hóa tiền vàng, các thứ còn lại đem vào ăn cả, không bỏ thứ gì!

Đây chỉ là cỗ lễ đơn giản nhất mà tôi biết, xin viết ra đây để bày giúp cho các vị Thầy (là nói về các vị làm thầy theo nghiệp Tổ tông, không rành lễ tiết). Riêng các vị theo thầy học đạo thì tùy theo chi phái mà có lễ tiết riêng… Các vị Thầy Tổ đã chỉ vẽ đầy đủ cả rồi!!

Trước
44. Nghiệp thế trả vay (07)
Kế tiếp
46. Liêu trai (9)