VỊ LAI PHÁP

{{app.isOpen() && app.isMobile() ? 'close':'menu'}}
search
share

{{group.groupName}}

  • {{item.name}}
{{bookPage.isOpen() && bookPage.isMobile() ? 'close':'format_list_bulleted'}}
Kinh sách - Huyền Môn Lược Ký (Quyển 2)
print share close
  • {{item.pageName}}

Nghiệp thế trả vay (06)

 

* Ngày xưa, vì gia cảnh khó khăn, tôi đã ba lần đi “kế hoạch” khi vừa kịp cấn thai - Về sau, cứ vài tháng tôi lại mơ một lần, trong giấc mơ thấy mình bồng bế đứa con trai chừng sáu, bảy tháng tuổi, cũng khuôn mặt ấy, quần áo ấy! Bé rất ngoan, không hay khóc nhè, khi khó ở trong người chỉ nhăn mặt tí xíu xong lại cười ngay… Tôi thấy mình lo bươn bả chữa bệnh cho người, bế con đi trần trụi ngoài đường, nay chỗ này mai chỗ khác… Mỗi lần thức giấc tôi ngồi thừ ra suy nghĩ: “Bé Chi con út lại là gái, đâu có con trai sao cứ mơ hoài, đứa bé ấy là ai?”. Nói đó rồi quên đó, công việc bộn bề cuốn hút, tôi lại quên đi…

Đến một ngày nọ ba đứa con về đủ trong nhà, tôi lại mơ thấy mình đi chữa bệnh cho người, ở nhà ba anh em mê chơi bỏ mất em bé… Vía tôi thấy mình hoảng loạn khóc la đi tìm con! Hai đứa lớn ngủ nhà trước chạy vào lay tôi dậy hỏi: “Mẹ mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?”, tôi kể lại giấc mơ, cháu hỏi: “Mẹ nhớ lại coi có bỏ đứa con nào không?”… Tôi rùng mình sực tỉnh, bèn khấn Mẹ: “Nếu đúng như vậy, con xin Mẹ cho mơ thêm một giấc giống y hệt để con tin!”. Liền đó tôi lại mơ: Vía thấy năm, sáu người bệnh tới nhà chờ chữa bệnh - Lúc đó con trai nhỏ của tôi (vẫn là đứa bé ấy) cũng đang tiêu chảy và nóng sốt, trời thì lạnh cắt da! Không kịp nấu nước nóng để pha, tôi đem cháu vô vòi nước rửa vội vàng, xong cho ngồi vào một cái sọt nhựa (loại để đựng quần áo), lo đi chữa bệnh cho người ta… Thằng bé đang bệnh, sốt cũng chỉ nhăn nhó vậy thôi chứ không thấy lên tiếng khóc!...

Tỉnh dậy tôi nghĩ thương con ngồi ôm mặt khóc một mình. Sáng ra tôi xin Mẹ cho tìm vong bé trai ấy, Mẹ Diêu Trì đưa về một bé trai đẹp như tranh vẽ, hai mắt to, tròn xoe, tóc màu bạch kim, bụ bẫm và xinh xắn như một thiên thần độ chừng ba, bốn tuổi!

Tôi ôm con khóc, xin lỗi vì đã bỏ quên con ngần ấy năm trời… Han hỏi, cháu cho biết mình là “Thiên đồng”, không có tên riêng! Cháu kể mình còn có sáu người bạn, ba trai ba gái ở cùng một nhóm. Do Thái Bạch Kim Tinh điều quản: “Chúng con bay đi, đến mọi nơi. Chúng con ca hát và múa cho hoa nở, cho chim hót và cho mọi người cùng vui…”

Tôi xin Mẹ cho lập bàn thờ, thờ bé. Mẹ nói: “Nó là thiên thần, không phải âm vong, thờ làm chi!”. Tôi xin Mẹ cho nhận con, và nhờ Mẹ đặt cho cháu một cái tên. Mẹ Quán Am nói: “Thiện Tâm, Thiện Phúc, Thiện Nhân”. Mẹ Diêu Trì thì bảo: “Thiên An!”. Tôi xin Mẹ cho chọn tên bé là Thiên An, và xin cho lễ cúng Cửu Huyền để nhận con. Hỏi bé muốn ăn gì, bé bảo: “Con muốn ăn thứ bánh mà các anh chị ăn tối hôm qua!” (Bánh bông lan), tôi muốn cho bé quần áo, giày dép các thứ và nón, dù… Bé nói: “Cho bé ba cái nón khác màu để bé tặng ba bạn trai, cho giày có quai hậu để bay không bị rơi, bé không cần dù, bé có cánh quạt mát lắm, không cần dù che đâu!”

Tôi bày một mâm có gà luộc và bánh trái các thứ, bé hỏi: “Bé đem các bạn về ăn chung có được không?”… Thế là bé đi gọi bạn trong lúc tôi thắp hương khấn Mẹ. Nghe tiếng quạt cánh “xành xạch” sau lưng, quay lại thấy bảy em bé giống y như nhau, có điều ba bé gái tóc xoăn dài, còn 4 bé trai tóc xoăn ép sát da đầu… Các bé đứng xuống đất thì bước đi bình thường, đôi cánh sau lưng biến đâu mất!

Tôi bảo: “Các con thử múa chào Mẹ coi nào!”. Ngay lập tức đôi cánh màu trắng lại hiện ra sau lưng, các cháu xếp hàng ngang trước bàn thờ Phật nhún mình vỗ cánh ba lần, xong quay lại phía tôi cũng làm như vậy! Tôi ngạc nhiên chỉ tay vào sau lưng các cháu, Mẹ Diêu Trì ra dấu ngăn lại, không cho tôi lên tiếng sợ cháu ngượng… Mỗi bé có một cái đuôi ló ra đàng sau, giống như đuôi cá, màu xanh da trời giống màu áo của bé, không có màu trắng như đôi cánh!

Từ đó tôi có thêm một đứa con trai - dạo đầu bé còn ngượng nghịu, về sau thì như con ruột trong nhà, có điều những thứ không ăn được bé ăn vào nôn ra thấy mà thương! Đậu hũ kho thịt bé không ăn được, sầu riêng cũng không…

Có lần bé về, thấy chị Chi đang nằm trong lòng Mẹ, bé đứng nhìn, đôi mắt mở to buồn rười rượi… Biết ý, tôi bảo bé Chi ngồi dậy, vẫy bé lại ôm vào lòng han hỏi, hôn lên trán và vuốt ve âu yếm! Bé bảo ở cõi Trên không có tình, không ai biểu lộ tình cảm với ai hết, chỉ có công việc và mệnh lệnh, cuộc sống tập thể đầy đủ, không thiếu thốn gì cả nhưng không có tình thương yêu: “Bé cũng muốn được Mẹ thương như thương chị Chi vậy!”, nghe con nói mà thương đứt ruột! Hèn nào cõi trên các Đấng cũng muốn xuống trần, mặc dù trần thế đầy cạm bẫy, đắng cay và hệ lụy… Nếu không có tình thương yêu, thì lầu vàng điện ngọc ích chi! Nếu con người sống với nhau lãnh đạm như một cỗ máy biết đi, chắc có lẽ hoa không nở, chim thôi hót, suối không còn chảy nữa và cuộc đời chẳng có mùa xuân…

* Sinh bé Chi ra, tôi quên bẵng đi mất phần Linh căn của bé là Minh Tâm, cứ ngỡ hồn nhập xác trần. Bé Chi lúc nhỏ đau bệnh liên miên, có một chứng nặng nề mà tôi chữa hoài không khỏi suốt mười mấy năm liền: chứng đau bụng! Bé thường lên cơn đau đột ngột, bụng đau quằn quại khiến bé gập người, mồ hôi vã ra, mặt mày tái mét - Cơn đau kéo dài chừng mươi, mười lăm phút, có khi cả giờ đồng hồ, tôi chữa bệnh hạ xuống ngay lập tức rồi lại lên tiếp như cũ, chừng ba, bốn lần cấp cứu mới hết hẳn!

Mới đây bé lên cơn đau ở lớp, nhà trường gọi Ba cháu lên rước về! Tôi sinh nghi gọi phần Linh căn bé Minh Tâm về, thấy cháu ngồi gục đầu trước bàn thờ Phật, dìu cháu đứng thẳng lên tôi thấy lộ ra hai mắt quỷ đỏ ngầu… Tôi hỏi thì cháu bảo hơn mười ba tuổi bị xe đụng vỡ lá lách mà chết, từ đó cứ đau hoài, mỗi lần lên cơn thì hai mắt quỷ lại xuất hiện, hết đau mắt không còn đỏ, cháu lại là bé Minh Tâm xinh xắn! Tôi chữa cho cháu, xin phép dùng Phật ấn để giải nghiệp cũ, hai phút sau bé Minh Tâm hết đau và bé Chi cũng tự động hết dù tôi không chữa cho bé…

Độ hai mươi phút sau, tôi phát đau bên thành bụng bên trái, đau đến đi đứng cử động không nổi, độ nửa tiếng đồng hồ sau, cơn đau tự động hết!

Đêm hôm sau nữa, tôi lại gọi bé Minh Tâm về chữa bệnh và giải nghiệp, cũng bị cơn đau bụng ở phía mình y hệt như lần trươc. Bé Chi nói: “Thấy chưa, con bị đau như có ai cầm dao cắt từng đoạn ruột, con nói mà Mẹ không tin”

Bà Barbara Ann Brennan, tác giả cuốn “Bàn tay ánh sáng” gọi những cơn đau đột xuất đó là ngọn giáo tiền kiếp”, tức sự đau đớn ở kiếp trước, ngay trước lúc chết, những cơn đau đến và ra đi không rõ lý do. Đương nhiên các xét nghiệm của bệnh viện không tìm ra bệnh, Phật bà Quán Thế Am gọi đó là bệnh do Căn hoặc Nghiệp!

Bệnh căn là bệnh của các phần Linh căn ở trên xuống, do có tội bị đi đày. Bệnh Nghiệp là bệnh của linh hồn vĩnh cửu, chịu cái đau do nghiệp tiền kiếp dồn trả… Chúng tôi sợ nhất là loại bệnh này, chữa “trần ai” mới hết, lại chịu đau thế, đau trả dữ lắm!

Không phải phần Linh căn chủ xác nào cũng được tự nhiên nhập xác trần, phải đúng thời điểm ấn định! Có người bốn, năm mươi tuổi, có người hơn hai chục, có người chưa đầy mười tuổi đã ứng về… Chỉ có phần bị đi đày mới nhập xác từ sơ sinh, những phần ấy không có linh hồn vĩnh cửu, chỉ có hồn hiện kiếp, và thường phải chịu một hoàn cảnh rất nặng nề (tùy theo tội trạng).

Mãn hạn lưu đày, nếu không gieo Nghiệp mới thì được trở về, bằng không lại phải đầu thai kiếp khác để trả tội đã vay! Người trần thế không biết, cứ gieo nhiều nghiệp chướng để rồi hết kiếp người phải chịu nghiệp báo luân hồi sang kiếp khác. Vì vậy mà chúng ta thấy nhiều hoàn cảnh trái ngang, nghịch thường và bất công đến nỗi khó tin, để chỉ có thuyết “Nhân quả luân hồi” của nhà Phật là hợp lý hơn cả!

Được làm thân người đã khó, chẳng chịu gieo Nhân lành… Đến một lúc mất cả thân người, thành ngạ quỷ, súc sanh, hồn lạc phách xiêu lang thang hàng xứ đói rét lạnh lùng, phẩn hận không nguôi - Hoặc như loài vô tri vô giác súc sanh, bàng sanh không còn cơ hội trở lại kiếp người được nữa.

* Mùng 8 tháng 5 năm 2006 Ba tôi mất sau mấy tháng nằm bệnh… Tôi về quê Nội ở Vĩnh Kim – Trà Vinh (nơi Ba tôi sống cùng người vợ sau) xin rước vong Ba về Sài Gòn thờ, cho trọn bề hiếu đạo.

Lúc đó, con trai lớn tôi mất mới nửa năm, mỗi ngày dọn cơm tôi vẫn gọi hồn cháu về ăn, không mời Ba vì tôi nghĩ dưới quê đã cúng cơm hàng ngày rồi… Đến bốn mươi chín ngày cúng thất tuần cho Ba, Ba tôi về, bước vào nhà xá Bàn thờ Phật ba xá rồi quay lưng đi ra không nói gì đến tôi! Tôi gọi lại han hỏi xem ba có thiếu thốn và cần thiết gì không, Ba nói có một câu rồi đi: “Nếu có thể thì con giúp Ba, Ba hiện đang ở cửa ngục thứ bảy, bị tra tấn đau đớn lắm!”. Tôi nghe vậy khóc ròng…

Từ ấy trở đi tôi tụng Kinh Cầu siêu cho Ba. Khi bắt đầu tụng kinh, tôi xin phép đưa phần Linh Điển của mình tới tận cửa ngục thứ bảy để tụng một thời Kinh Siêu độ, cầu cho tất cả các tội nhân trong ngục ấy cũng được nghe để phát tâm tu trì hầu tiêu tan nghiệp chướng, được đầu thai trở lại làm người!

Suốt thời gian tụng kinh, tôi luôn thấy mình ngồi giữa một hành lang tối đen, hai bên là tường thành bằng sắt cao ngất không tìm thấy cửa. Có lúc Vía tôi thấy mình mò mẫm đi tìm, áp tai vào thành sắt mà chẳng nghe động tĩnh gì, chỉ có sự im lặng lạnh lẽo cùng tiếng kinh tụng từ miệng tôi vang lên nghe rõ mồn một giữa chốn không người…

Trong một tuần liền, tôi bị đau nhừ nhẫn. Thỉnh thoảng chừng mười lăm, hai mươi phút lại nghe một luồng đau rát và nóng buốt vút qua ở sau lưng, y như có ai cầm roi nung lửa mà đánh, đau rát và nóng đến kinh người… Tôi sợ quá nói với Má: “Chắc con bị ung thư xương!”, Má tôi bảo đi bệnh viện xét nghiệm kẻo rồi bệnh chuyển nặng không kịp chữa!

Tối hôm sau, khi tụng kinh tôi quên khuấy lời khấn “Đưa phần Linh Điển tới tận cửa ngục”. Thế là sáng hôm sau hết đau! Nghiệm lại tôi biết mình đã chịu đau thế cho Ba…

Đến rằm tháng bảy - tôi cúng cơm chay và kết hợp chiêu đãi phần âm! Ba tôi về, vui cười Bảo tôi: “Ba được lên cửa ngục thứ Ba rồi, cảm ơn con”. Từ đó, mỗi lần cúng cô hồn hàng tháng, tôi lại xin cho Ba tôi và con trai về làm chính chủ đứng ra phân phối lộc thực để tạo công đức mà “đoái công chuộc tội”. Tôi cũng khấn xin quy công đức chữa bệnh, giúp người từ giờ trở đi cho Ba tôi để xin giải nghiệp cho Ba… Sau ngày giỗ hai năm của Ba, đêm ấy tôi nằm mơ: tôi thấy mình đi làm công quả ở Chùa - chỉ có một mình làm đủ thứ chuyện nặng nhọc, nào đắp đường, nào nhổ cỏ trồng cây… Mãi đến chiều tối mệt lã, tôi vào Chùa chào Sư Cô Trụ Trì nói: “Con làm xong việc rồi, thưa Sư cô con về”. Lúc ấy Sư Bà đang nằm trên giường bảo: “Con thấy gì không Lan? Ba con ngồi trên bàn đà đang cười kia kìa!”. Có thế, tôi giật mình tỉnh giấc… Từ “Bàn đà” hoàn toàn lạ lẫm với tôi, nhưng nghe nói Ba cười là tôi biết có tin vui cho Ba rồi!

Từ hôm ấy trở đi Ba tôi được mãn hết tội, về ở tại nhà tôi. Mỗi bữa cơm tôi chỉ ăn một mình một bát, nhưng dọn năm bát năm đũa mời Ông Bà Nội, Ba tôi và bé Tí, bé Thiên An, và cho những âm vong bị nhốt trong KTT ăn… Có điều lạ là âm hồn trong ấy tự bốc ăn bằng tay, không dùng bát đũa - Tôi đưa mâm thức ăn vào, họ thò tay ra bốc ăn, chén bát không sờ đến, tiếng những ngón tay khua xuống bàn nghe y như tiếng gà mổ thóc vậy!

Tôi cũng thấy mình chẳng giống ai, mỗi buổi cơm một mâm chén bát, ngồi bên mâm cơm nói láp giáp một mình - Đúng là “sống cùng cõi âm”, mãi rồi quen tật không còn muốn bước ra đường, bạn bè không có, các cuộc vui cũng từ bỏ, chỉ thích tịch lặng một mình!

Tôi làm mọi việc không phải vì mê tín, bởi tôi đã tận mắt nhìn thấy âm phần ăn uống chi dụng được những thứ mà cõi thế tài trợ, tôi cho họ ăn chỉ vì lòng nhân đạo đấy thôi! Có lúc tôi quên, lại nghe văng vẳng bên tai: “Cho Ba ly nước!” (vốn Ba tôi có tật vừa ăn vừa uống).

Có lần tôi nhận quyết định làm chủ nhiệm CLB thơ Đồng Vọng, về nhà vừa làm việc vừa nhớ lại cuộc họp công bố quyết định lúc sáng… Bỗng nghe tiếng ba tôi vang lên sau lưng: “Con Sáu Núi mà vừa gì!”, kèm theo một trận cười sảng khoái của Ba.

Ba tôi xưa kia là Hiệu trưởng trường làng, Má tôi cũng là cô giáo. Ba Má hồi mới yêu nhau làm thơ cho nhau nhiều lắm! Nay con gái Ba làm thơ giỏi, chắc Ba cũng mãn nguyện rồi…

Thôi, chắc tôi kể về mình cũng nhiều rồi, xin tạm ngừng ở đây, chúng ta sang chương khác vậy nhé!

Trước
37. Thực hành cụ thể (09)
Kế tiếp
39. Sự xuất hiện của các phần linh điển liên đới (2)