VỊ LAI PHÁP

{{app.isOpen() && app.isMobile() ? 'close':'menu'}}
search
share

{{group.groupName}}

  • {{item.name}}
{{bookPage.isOpen() && bookPage.isMobile() ? 'close':'format_list_bulleted'}}
Kinh sách - Huyền Môn Lược Ký (Quyển 1)
print share close
  • {{item.pageName}}

Sự xuất hiện của các tinh chủ về y thuật

 

* Tháng 7/1989, con trai thứ hai của tôi được ba tuổi rưỡi. Một sáng nọ đột nhiên bị phù cứng cả mặt, hai mắt chỉ còn như ke chỉ, một bên cổ nổi lên 4 cục hạch sưng to rất đau không day trở gì được! Sáng đó trời mưa bão tối đen, nhà lại mất điện - Má tôi bảo: “Nó bị bệnh tràng nhạc, bệnh này nặng lắm, đưa đi BV ngay kẻo trễ”.

Tôi thắp nén hương cầu xin PB về, Ngươi bảo: “Để ta cho Thầy về trị cho cháu nghe!” chợt  thấy có một ông lão người gầy và cao da ngăm mặc chiếc áo chùng đen - chân đi dép cỏ, ngang vai khoác một tay nải bằng vải màu nâu. Ông nói: “Ta làm cho thằng bé 10 phút sau hết phù, con thưởng gì ta? Nửa con vịt quay nhé!” Tôi bảo: “Con tạ ơn Ông nguyên con” Ông cười: “Nói chơi thôi, ta ăn chay mà”!

Rồi hỏi tôi xem trong nhà có vật gì bằng kim loại không - Tôi tìm mãi mang ra cây kim may tay! Ông cầm cây kim day ấn vào các huyệt trên người bé Ti, cách làm nhanh và điệu đàng, lã lướt in như bàn tay khảy trên phím đàn - Tôi nhìn đến say mê! Tuy nhiên, khi Điển nhập vào tôi mà làm, tôi nhìn bằng “thể vía” thấy tay mình ra tay ông lão ấy, năm ngón gầy đét, móng tay dài và đầy cáu bẩn. Thấy tôi nhăn mặt, ông nói: “Tay ta dơ quá phải không? Hái thuốc cả ngày sạch làm sao được.”

Tôi lại hỏi: “Con nghe người xưa nói: Chân đi hài cỏ – sao ông lại đi dép?”. Ông bảo: “Đi trong rừng mang hài có mà ngã té què chân - mang dép hai ngón kẹp quay đi mới dễ”. Một chốc sau, thấy đôi mắt bé Ti mở lơn lớn, PB nói “Con đem cháu ra chỗ đèn sáng, ấn ngón tay vào cơ bắp, nếu buông ra thịt không còn dấu nún xuống là hết phù”. Tôi làm y như vậy, quả nhiên bé Ti không còn bị phù nữa, chỉ sau 10 phút!

PB lại bảo: “Cháu nó bị viêm tuyến Ba-tô-lin, là tuyến nước bọt đó - không sao đâu! Con lấy chai nước nóng bọc khăn chườm, chừng 2, 3 ngày hạch sẽ lặn hết cho coi”.

Bạn đọc thấy sao - tất cả các phương tiện y học hiện đại, có phương pháp nào làm hết phù sau 10 phút không? Ta còn phải phục người xưa dùng từ khoa học chuyên môn: tuyến Ba-tô-lin!

Tiên ông bảo: “Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”

Tôi lại mở ngoặc để thưa với các bạn đọc rằng: nguyên văn thầy Thái Thượng nói như vậy, tôi không có điều kiện để tra cứu thực hư!

Thầy còn kể chuyện thầy tự tay đi hái thuốc trong rừng như thế nào...Rằng thuốc có nhiều loại - vị bổ phải hái lúc sáng sớm, vị độc nhiều phải hái vào lúc giữa trưa và có loại phải hái lúc nửa đêm, có loại phải theo mùa, theo tiết nữa...Tôi hỏi: “Nếu Ơn Trên chuẩn cứu 1 người bệnh ở cõi trần thì cứu bằng cách nào?” Thầy cười đáp: “Thì cung y như cõi trần vậy thôi! Ví dụ người bệnh đó có người bà con là phần Linh căn ở trên: Thánh, Thần, Tiên, Phật gì đó… Họ đến cầu cứu thầy, xét thấy hợp căn, hợp mệnh thầy ra phép cứu - Ở dưới trần sẽ xoay chuyển cho có người chỉ cho một phương thuốc đơn giản nào đó, thế mà khỏi bệnh, vậy thôi”

Huyền nhiệm ở chỗ là tôi không hề tu học ngày nào về Đông, Tây y, về phép chẩn bệnh, điểm huyệt... Thế mà tôi ấn vào đúng huyệt không sai! Về sau ngày càng tiến bộ, tùy bệnh trạng mà day, ấn, xoa, vuốt... vào huyệt vị hoặc kinh mạch!

Có lần tôi tìm được đồ hình huyệt vị trong con người, nhìn đến hoa cả mắt, học mãi mà chẳng nhớ tên huyệt nào, cứ như bị trêu ngươi, che mắt vậy! Thế mà có bệnh nhân tới, tự bàn tay tôi làm thành thạo như từ trong tiềm thức đã chuyên…

Đến giờ này, tôi mới tin là có tiền căn, hậu kiếp! Con người ta đâu từ thuở hồng hoang đã biết hết mọi điều, cho dầu đơn giản nhất. Đã có bàn tay các Đấng trợ giúp hoặc ứng về ai đó để tự nhiên mở khẩu truyền thông tin, hoặc theo như lời PB giảng: Tất cả những Thiên tài, Bác học, Thần đồng, những nhà phát minh hoặc các bậc Danh sư, Thần y... đều do các Đấng sai xuống để hỗ trợ con người. PB nói: “Trần gian là cõi trung chuyển, là lò tôi luyện hoặc chốn hành Đạo, trả nghiệp...Các cõi khác đều từ nghiệp quả trần kiếp mà luân chuyển!”

Nguồn cội từ cái nhân mới sinh ra cái quả. Người trần không biết, cứ lo tạo tiện nghi vật chất mà quên rèn luyện, nâng cao tâm hồn mình - Chết rồi quay lại nhìn chẳng thấy nắm được gì trong tay ngoài gánh nghiệp vương mang, luân hồi thác sinh kiếp khác vay trả báo đền, thảm thương biết mấy!

* Tháng 6/1990, con trai lớn của tôi lúc ấy 6 tuổi. Một đêm nọ sốt cao liên tục cả đêm, đến 3g30 sáng thì bại liệt cả người, không còn nhúc nhích được nữa, cả người bé nóng ran, nói sảng lảm nhảm... Tôi sợ quá cầu PB cứu. Người về nói: “Để ta cho nó hết sốt, ngủ dậy thì khỏe liền”.

Mới loay hoay, bé Tí đã lăn ra ngủ, sờ tay vao thấy hạ sốt rồi! PB ngồi lại với tôi nói chuyện đến 5g kém 10 phút Đài Truyền thanh của Xã phát, cháu ngồi dậy mừng rỡ: “Mẹ ơi con nhúc nhích được rồi, con hết bệnh rồi”...

Nhân đây, tôi kể luôn cho các bạn nghe nhân duyên tôi được 2 vị thầy nữa về trợ cho tôi chữa bệnh cứu người.

* Vài tháng sau khi Thầy Thái Thượng về, lúc nửa đêm trở dậy, vía tôi thấy mình đi ra nhà trước, thấy có 1 Tiên Ông ngồi trên đầu tủ. Thấy tôi ông cười bảo: “Biết ta là ai không? Đoán đúng ta nhận làm đệ tử”. Trong đầu tôi vang lên lời nhắc. Tôi bảo: “Hải Thượng Lãn Ông”. Người nói: “Lạy ta 3 lạy ta truyền nghề thuốc cho”. Tôi quỳ lạy, đứng lên nghe người nói: “ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là thầy. Thầy có viết bộ sách “Hải Thượng y tôn tâm lĩnh” gồm 4 quyển, con tìm đọc đi”

Sáng hôm sau, tôi hỏi một người biết về thuốc Đông y, họ xác nhận đúng y như vậy! Từ đó, bệnh nào nặng hoặc bị hành căn, khó chữa tôi lại xin thầy về chẩn mạch và cho thuốc. Thường thầy hay cho những vị thuốc Nam dễ tìm ở ruộng đồng bờ bãi hơn là những vị thuốc Bắc đắt tiền. Thầy dạy rất kỹ: Loại này phơi âm can, gần khô thì sao, hạ thổ, loại kia ngâm nước cơm vo qua đêm, rửa lại rồi phơi ráo ngâm rượu...v.v

Đa số các bài thuốc Thầy cho thường có 5 vị; hoặc chỉ độc 1 vị cây cỏ đơn giản mà uống hết bệnh. Thầy dạy, tôi chỉ nhớ loáng thoáng: thuốc có mấy vị: Quân, Thần, Tá, Sứ - mạch có: trầm, phù, trì, xác (?). Chứng có: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa…

Tôi nhớ mang máng như vậy, nếu viết lại có sai xin các bạn đừng cười tôi nghe!

Thầy dạy tôi cách thăm khám (nói đúng hơn là Thầy “nhập thần” vào tôi để chẩn bệnh, tôi nghe mãi rồi thành quen tai). Khi bệnh nhân đến, tôi hay hỏi nhẩn nha, dông dài: “Anh (hay chị) làm nghề gì? Có mấy cháu? Hoàn cảnh đầy đủ hay khó khăn, bệnh phát lâu mau? Chứng như thế nào? An ngủ có đúng giờ, ăn có ngon miệng không?...” Hỏi xong rồi chẩn mạch (thực ra tôi có biết nghe mạch đâu, tôi chờ nghe thầy nói đó thôi) và thầy chẩn cho ai cũng chính xác, mọi người đều phục!

Tôi cũng không nhớ rõ từ lúc nào thầy đã “truyền thần” cho tôi hoàn chỉnh, chỉ biết là cho đến về sau này, tôi tự đặt tay lên mạch là nói đúng y, không cần phải chờ nghe thầy phán nữa! Tôi còn nghe được cả trong các cơ quan nội tạng, chỗ nào có trục trặc là tôi cảm nhận được ngay…

Từ ấy đến nay, có nhiều vị thuốc lạ Thầy truyền lại cho tôi và tôi đã chữa cho nhiều người hết bệnh. Tôi không thể nhớ hết được. Xin để đoạn sau tôi sẽ chép lại tặng bạn đọc, giờ tôi xin phép kể tiếp về sự xuất hiện của “Tinh chủ y thuật” thứ ba để cho câu chuyện có mạch lạc, vậy nhé!

* Một buổi tối, tôi đang sửa soạn đi ngủ, thầy Thái Thượng bước vào, theo sau là 1 người hình tướng rất kỳ lạ: Người to bè, tóc cứng như rễ tre, trán dẹp, môi dày thâm đen – đi chân không trên đất và đặc biệt là đôi bàn tay, bàn chân to và thô nhám rất khác thường! Thoạt nhìn, tôi đã nghĩ ngay: “chắc là người tiền sử”.

Thầy Thái Thượng nói: “Đây là Thần Nông; người về trợ duyên cho con đó”. Tôi xá Thầy 1 cái cảm ơn! Thần Nong nói: “Người ta tặng cho Thầy biệt danh là Vua nếm thuốc. Thầy có để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày hơn 700 trang đó”. Tôi hỏi: “Sao Thầy đi chân không vậy, gai rừng đâm đau chân làm sao?”, thầy bảo: “Thầy đi chân không quen rồi, da chân dày thế này, gai nào đâm được” Thầy trò cùng cười!...

Thầy lại bảo tôi: “Mai mốt con chuẩn bị thu xếp đi vài ngày, thầy sẽ dạy con nếm thuốc! Phải tới nơi bờ sông bãi sú thì mới có nhiều vị thuốc” Thầy còn dạy tôi (y như dạy một đứa trẻ mới học vỡ lòng): “Con mang theo một con dao, đồ bấm, bao nilon, 1 quyển tập, viết...Thầy dạy con ngắt lá hoa hoặc trái của cây thuốc để làm mẫu - con bỏ vao bao, bấm cứng vào trang vở, xong mở lên ghi ở dưới công dụng, cách thu hái và chế biến, liều lượng”

Một dịp may có 1 không 2 trên đời, thế mà tôi đã để vuột mất... Hoàn cảnh gia đình lúc đó khó khăn làm tối mặt chưa đủ miếng ăn, bỏ việc đi chơi rong thì chết đói mất!

Sáng hôm sau tôi kể lại chuyện này cho các em tôi nghe - Quang, em trai thứ sáu của tôi nói: “Chị bị bệnh hoang tưởng mất rồi, Thần Nông là ông vua dạy nghề nông bên Tàu mà chị nói là thầy thuốc”. Ngay chiều hôm đó, quyển đặc san “Thuốc và sức khỏe” có viết 1 đoạn như sau: “Người đời xưa truyền tụng Thần Nông là Vua nếm thuốc – ông còn để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày 750 trang...”

Vậy đó, đa số những điều “Điển” về nói với tôi gần như ngay lập tức có tài liệu minh chứng kèm theo, chuyền vào tay tôi bằng cách nào chưa kể, có điều sự huyền nhiệm thì đã hẵn!

Đêm sau, tôi nhớ mang máng vào độ tháng 7/1996. Lúc 11 giờ đêm, ba vị Thầy về cùng một lúc dạy tôi học thuốc - để các bạn thấy thêm một điều kỳ diệu, tôi phải giải thích thêm một chút: tôi vốn cận thị 3 độ, mắt rất kém! Bóng đèn ngủ (loại bóng cà na màu đỏ) gắn trên cao hơn 2m. Ngay 1 người tỏ mắt cũng không thấy được gì, nữa là tôi!

Thế mà Điển Thầy về nắm tay tôi viết 8 trang giấy học trò, dạy cơ bản về phương pháp chẩn bệnh, nói sơ về các huyệt chủ và các vị thuốc điều trị bệnh. Chỉ tiếc là qua bao thăng trầm dời đổi tôi đã để thất lạc gần hết, nay còn lại một ít cũng xin chép lại đây, mặc dù thực hư tôi vẫn chưa có cơ hội kiểm chứng.

- Thần phương: (Xem lại bản gốc)

- Chữa bệnh cốt cần an huyệt, thông huyệt. Khi huyệt, mạch lưu thông không còn ách tắt thì bệnh hết. Thuốc không cứ là loại nào, nguồn gốc từ đâu, chỉ cần sao chế đúng cách là sử dụng được!

- Người tạng nhiệt thì bình ôn, tạng hàn thì chỉ nhiệt, khí trệ thì bổ khí, tâm hư thì an tâm, tỳ yếu kiện tỳ, vị yếu bổ vị...

- Khí hư thì tâm phiền, tích nhiệt, trích đờm! Tâm hư thì mất ngủ, phiền não, hay lo sợ, hồi hộp, làm mệt. Tỳ yếu biếng ăn, khó tiêu, hay đi cầu, ấm ách bụng thường xuyên. Vị yếu cũng lười ăn, khó tiêu (vị yếu đi kèm với các chứng của tâm hư)

- Đàn ông chủ thận, đàn bà chủ huyết!

- Đàn ông hư thận sinh chứng đau thốn bên hông trái, tiểu dắt, tiểu nóng, đỏ, khai nhiều, lâu dần đi tiểu đục, chân khí tiêu hao, người nóng nhiệt, mắt đỏ...

- Đàn bà huyết hư đau cả 2 bên hông, người gầy yếu xanh xao, có kỳ hành đủ chứng, khó ngủ, hay hồi hộp, cáu gắt, tâm phiền nhiệt, hư tỳ vị, bế huyệt mach, khí không thông, mắt mỏi thường xuyên, tay chân run rẩy...

- Có 360 huyệt mạch chính trong người. Chủ yếu là huyệt Bách Hội (ngay giữa đỉnh đầu điểm thẳng xuống). Day 5 ngón tay chung quanh là kiện toàn bổ túc!

- Trước tiên bắt mạch định bệnh, bấm huyệt đỉnh đầu để khai thông kinh mạch, sau bấm huyệt tùy theo bệnh chứng (mất...)

- Các loại cây lá chủ trị từng loại bệnh (không cần dùng kèm)

- Ích mẫu: Khai thông huyết mạch, kiện toàn cơ thể phụ nữ (nhất là người mẹ), trị hư huyết, tâm phiền, đau bụng khi hành kinh.

- Ngải cứu: Đặc biệt dùng chữa chứng đái dắt đái buốt (viêm đường tiết niệu), làm thông khí, hạ đờm. Ho có đờm: lá tươi đâm lấy nước uống không cần liều lượng. Đái dắt đái buốt: lá tươi uống hay nấu nước dùng sau 1 lần hiệu nghiệm ngay tức thời, uống 3 ngày hết viêm đường tiết niệu!

- Lá chanh chữa bệnh đau gan, xơ gan trướng bụng: Mỗi ngày sử dụng chừng 1 dúm lá tươi nấu 3 chén nước, chia làm 3 lần uống lúc bụng đói, chừng nửa tháng bụng tiêu!

- Trái chanh non: bằm nát chung quanh cả vỏ, vắt lấy nước bỏ đường uống lúc bụng đói trị ung thư gan mới phát, nửa tháng có tác dụng, dùng đến khi xét nghiệm lại hết hẳn mới thôi!

- Hạt cây đậu ma (còn gọi là cây sục sạc): Loại hạt sử dụng trong gói trà thanh nhiệt (không kể hoa hòe, cam thảo). Dùng lâu dần trị được chứng tâm phiền, não nhiệt, làm dịu mát cơ thể, chữa thần kinh suy kiệt (stress), ngủ an giấc không mơ ác mộng, tay chân hết run. Sử dụng liên tục cả đời đều tốt, (cần sao hơi cháy mới nên thuốc).

- Cỏ mực: Người nóng nhiệt nấu nước uống, trẻ nóng sốt cao vắt nước cho uống hạ nhiệt mau hơn thuốc tây. Trị đau nhức khắp mình mẩy, tay chân rũ liệt trong bệnh cảm, trúng gió lấy cỏ mực nấu nước uống thì hết!

- Lá giấm: Bó gân, xương - thông tiểu tiện, viêm đại tràng, táo bón - hơ lá cho nóng già áp lên chỗ viêm vài lần trong ngày, bất cứ sưng nhiệt hay mụn nhọt đều hạ rất nhanh! Bong gân đau xương hơ nóng lá đè lên chỗ đau 2, 3 lần trong ngày, chỉ 2, 3 ngày thì khỏi - tiểu không thông, táo bón, viêm đại tràng nấu nước uống (trái lá đều dùng được)

- Hoa quỳ (dã quỳ): Trẻ bị huyết vận vò nát đắp lên khắc tan trong 1 tiếng đồng hồ. Hoa quỳ (cánh hoa) trị chứng sốt khát nước, nóng tiểu rát, viêm phần phụ của đàn bà, viêm đường tiết niệu, tuyến tiền liệt của đàn ông. Cánh hoa chưng cách thủy vơi đường phèn uống thì khỏi -

Đoạn sau này tôi xin kể cho bạn đọc biết những loại thuốc, cây lá mà Thầy Hải Thượng đã dạy cho tôi, để các bạn nghiên cứu lại cho có hệ thống...

- Buổi trưa mùa hè nóng bức đến như muốn nổ tung cả người, tôi gần như phát điên, thầy Hải Thượng về, đứng ngoài sân nói: “Thuốc đây sao không biết dùng”! Thầy cúi xuống, tay nâng cành lá cây móng tay: “cả cây đem vô rửa sạch nấu nước sôi để lửa riu 15 phút, uống lúc thuốc còn ấm thử coi sao”. Tôi làm y, chỉ 15 phút sau khi uống cả người mát dịu, cơn nóng sốt bay đâu mất!

- Sau nhà tôi có cây cà ri, lá nó vò trong tay ngửi rất thơm! Cây có trái be bé màu xanh, chín đỏ mọng, vị ngòn ngọt trẻ con rất thích - có lần tôi đang đứng sau vườn ngắm trẻ đua nhau hái trái ăn. Thầy về rầy: “Nếu không sử dụng thì chặt bỏ nó đi, kẻo trẻ con ăn nhiều sẽ bị ngộ độc đấy”. Thế là tôi chặt cây bỏ, không dám để lại!

- Thầy dạy: Lá cây cỏ xước, đem rửa cho hết lông tơ đi rồi vò nát đắp lên bướu cổ, bướu sẽ tiêu dần…

- Có bệnh nhân đau cột sống lâu ngày, chích thuốc giảm đau mãi rồi hư thận, nước tiểu tự động chảy ra, người chỉ còn 37 kg, BV trả về!

Tôi chữa trong 2 tháng thì hết hẳn mọi triệu chứng. Kèm theo Thầy cho uống các loại thuốc sau:

- Đầu tiên uống 7 thang thuốc có 5 vị: sen, cỏ xước, cây đau xương, râu bắp, thiên niên kiện. Uống sau 1 tuần thì đi tiểu bình thường và giảm đau...

- Uống hết 7 thang thuốc, thầy cho ăn 10 trái cật heo (3 ngày 1 trái): Đậu đen ngâm qua đêm nấu gần chín nhừ bỏ vào giữa trái cật (khi đang còn nóng), chưng cách thủy chín chấm muối mà ăn, chưng lạt không nêm nếm - thuốc này để trị thận hư!

- Sau đó thầy bảo mua 500gr táo tàu đen, cách 1 ngày mua 1 trái dưa hấu nhỏ cắt mặt khoét ruột đủ bỏ vừa 50 gr táo vào đậy nắp lại chưng cách thủy, đợi táo vừa mềm nhừ đem ra ăn cả táo lẫn ruột dưa...

Ay thế mà bệnh nhân hết bệnh, hai tháng sau BV xét nghiệm lại, các chức năng gan thận hoàn toàn trở lại bình thường và cột sống hết đau!

* Có một loại thuốc quý, rẻ tiền mà ít ai biết: trà khô -  Thầy dạy và tôi chỉ lại cho rất nhiều người, kết quả “tuyệt vời”!

- Đau nhức, bong, sưng, trặc, do viêm khớp hoặc sang chan, vết bầm tím do tụ máu: lấy 1 nắm trà khô bỏ vào bát, đổ nước sôi lấp xấp, đậy kín như trà uống, 5 phút sau bọc vào túm vải chườm nóng, đồng thời xoa xát nhẹ lên chỗ đau, kết quả ngay tức thì! Thầy còn dặn một điều cơ bản mà ít ai biết: trong đa số các loại đau nhức không bao giờ được bóp mạnh tay, sẽ viêm đau nhiều hơn vì lúc đó thần kinh, mạch máu và cơ bắp đang căng - Chỉ nên xoa xát hoặc day nhẹ nhàng để dẫn lưu máu huyết và thần kinh mà thôi!

- Viêm họng: Nước trà đặc, bỏ muối mằn mặn như nêm canh để trong bình thủy giữ nóng, ngậm “khò khò” trong cổ họng rồi nhổ bỏ, giảm đau rát ngay tức thì - Độ chừng 2 giờ đồng hồ ngậm súc miệng 1 lần, bao giờ hết viêm thì thôi!

- Hàn thấp, thần kinh tọa: 1 nắm cứng trà nấu nước sôi vài dạo (bỏ thêm 2 muổng canh muối). Cho một nửa vào thau, pha thêm nước nóng, ngâm 2 chân tới mắt cá! Nước phải nóng già (độ nóng làm đỏ da mà không phỏng). Nước bớt nóng châm thêm nước trà ngâm chừng 15, 20 phút, đồng thời 2 tay cào, xoa nhè nhẹ 2 bàn chân để rút hàn khí và dẫn lưu khí huyết. Chỉ 2, 3 hôm là 2 chân nhẹ nhàng, đỡ mỏi, đỡ lạnh…

Thầy còn nhắc kỹ điều này: những người bị phong hàn, thần kinh tọa luôn luôn chân đi phải cách đất, dù nền gạch hoa cũng vậy, luôn phải mang dép trong nhà, nếu không bệnh thần kinh tọa không tài nào chữa hết được!

- Tôi có người anh kết nghĩa được ai đó tặng cho 2 chậu cây Hoàn ngọc và cây Xuân hoa (gọi chung là Hoàn ngọc lá lớn, Hoàn ngọc lá nhỏ) đem về không dám sử dụng, tôi chiết giống đem về trồng cũng để đó chẳng biết làm gì (thời gian này cây Hoàn ngọc chưa biết công dụng và chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ dùng theo kinh nghiệm dân gian)

Thầy Hải Thượng về bảo: Thuốc quý đây con, thầy dạy con cách sử dụng nghe!

Viêm họng: hoàn ngọc lá nhỏ (nam thất nữ cửu) dùng lá hoặc đọt non cũng được, nhai nuốt nước để trôi chầm chậm qua cuống họng, kết quả tức thì!

Tôi đã dùng cho nhiều người, đều khỏi. Có điều mụn lỡ trong miệng phải nhỏ nước thuốc đặc vào đúng chỗ lở thì tác dụng giảm đau liền, nhai có nước bot tác dụng chẳng bao nhiêu! Có lần tôi bị té quỵ trầy sướt đầu gối, làm độc viêm và sưng mũ, tôi lấy lá giã đắp lên, 1 tiếng đồng hồ sau viền đỏ viêm chung quanh vết thương hạ xuống, chỉ 4, 5 hôm là khỏi hẵn! Điều kỳ diệu là vết thương ngay đầu gối thường lâu khỏi vì nằm ở chỗ co duỗi chân, nay nước lá hoàn ngọc có tính năng tạo đàn hồi, làm cho da non không bị tổn thương khi co giản…

Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm điều trị bằng lá hoàn ngọc rất tuyệt vời, nhờ Thầy dạy, thầy còn dạy tôi cách chế biến và ngâm rượu 2 loại hoàn ngọc khác nhau: Lá lớn thì tẩm nước cơm vo, lá nhỏ ngâm với gừng... cách sao tẩm công phu và tác dụng điều trị thì “khỏi chê”!

Rượu hoàn ngọc lá lớn để trị bao tử và huyết áp, các bệnh về đường ruột...

Hoàn ngọc lá nhỏ công dụng nhiều hơn, ngoài trị các chứng như trên còn sát trùng, giảm đau, tiêu viêm...

Rượu hoàn ngọc lá nhỏ dùng trị đau bụng cấp tính, đau bụng gió, tiêu chảy, viêm đường ruột, đại tràng, nôn mửa...xoa ngoài giảm đau, tiêu viêm, thông khớp, chữa bong, sưng, trặc, bầm tím, tụ máu...kết quả thấy chuyển ngay sau lần đầu tiên sử dụng!

Thế nhưng, cho dù thầy giỏi đến thế nào cũng không chữa được bệnh cho tôi. Khi tôi đau dữ xin thầy về, thầy chỉ đứng nhìn buồn rầu rồi nói: “Thầy xin lỗi, thầy không chữa được bệnh cho con” rồi thầy quay lưng đi. Tôi chẳng dám trách thầy nhưng lòng tôi đau đớn lắm...

Ngay cả các con tôi, tôi cũng không chữa được bệnh cho chúng. Khi con tôi bệnh tôi chỉ có đưa đi bác sĩ. Định mệnh gì mà nghiệt ngã đến thế này?

Về sau, từ khi tôi học thêm về nhân điện, tôi mới chữa được bệnh cho con của mình, cũng có lúc được, lúc không (từ năm 1999)

Trước
13. Liêu trai (3)
Kế tiếp
15. Thơ văn khuyến đạo